Quyết sách táo bạo - kỳ tích vẻ vang
Năng lượng Mới số 316
Dấu ấn sức mạnh tổng lực
Ông Trần Viết Ngãi - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, nguyên Phó tổng chỉ huy công trình đường dây 500kV mạch 1 cho biết: Năm 1991-1992 là thời kỳ bắt đầu đổi mới của đất nước, lúc đó miền Bắc thừa điện, trong khi công suất lắp đặt của miền Nam chỉ đáp ứng được 89,73%, miền Trung chỉ đáp ứng được 40,91% nhu cầu. Trước tình hình đó, Thủ tướng Võ Văn Kiệt giao nhiệm vụ cho Bộ Năng lượng thiết kế đường dây 500kV nhằm truyền tải lượng điện năng dư thừa từ miền Bắc vào cung cấp cho miền Nam. Theo tính toán, đường dây này dài gần 1.500km, đi từ Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, qua Ninh Bình - Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh - Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên - Huế - Quảng Nam - Đà Nẵng - Kon Tum - Gia Lai - Đắk Lắk - Đắk Nông - Bình Dương - Đồng Nai - Phú Lâm - Sài Gòn.
Điều đáng nói là lúc đó, chỉ có 1 số nước trên thế giới sử dụng đường dây 500kV, chiều dài tối đa cũng chỉ khoảng 600-700km nhưng đường dây 500kV Bắc Nam lại dài trên 1.500km, điện áp cuối đường dây sẽ tăng vọt. Vì vậy, quan trọng nhất là phải tính toán dao động tần số 1/4 bước sóng, thiết kế 5 trạm bù (bù ngang, bù dọc - bù điện cảm, điện dung) sao cho tới cuối đường dây, điện áp vẫn không thay đổi.
Ông Trần Viết Ngãi, Tổng giám đốc Công ty Xây lắp Điện III nhận cờ Luân lưu của Chính phủ thi công đường dây 500kV năm 1992
Mục tiêu đặt ra khi thiết kế, thi công đường dây 500kV cũng được xác định là phải chọn con đường ngắn nhất, đi qua rừng núi để giảm giải tỏa đền bù. Vì vậy, hướng tuyến phải bám Quốc lộ 14, dọc theo dãy Trường Sơn, việc phát tuyến hành lang rất vất vả vì gặp rất nhiều cây rừng già. Nhiều người tính toán thời gian thi công sẽ không dưới 8 năm! Thế nhưng, Thủ tướng yêu cầu phải hoàn thành trong 2 năm: Khởi công năm 1992, kết thúc năm 1994 để vận hành đồng bộ với Nhà máy Thủy điện Hòa Bình. Và để làm được điều này, giải pháp vừa thiết kế vừa thi công đã được áp dụng. Lực lượng thiết kế chính được giao tính toán các cột gốc, cột néo, còn cột trung gian đơn vị xây lắp phải tự tính toán.
Lực lượng thi công lúc đó chỉ có 4 công ty xây lắp điện 1, 2, 3, 4. Việc cung ứng vật liệu thi công rất khó khăn vì khi đó, cả nước chỉ có 3 nhà máy xi măng là Hải Phòng, Bỉm Sơn, Hà Tiên. Riêng phần cột điện có 60% nhập từ Ukraina, 40% sản xuất trong nước. Toàn bộ dây dẫn, thiết bị trạm, phụ kiện, cáp quang đều nhập từ Ukraina, Pháp, Nhật... Các công ty xây lắp chia ra các tổng đội để giao khoán công việc, các tổng đội lại chia thành các đội, nhóm để quản lý. Hàng vạn chiến sĩ quân đội được huy động tham gia phát tuyến hành lang, chủ yếu là lực lượng Quân khu 3,4,7, Quân đoàn 3, các Binh đoàn Trường Sơn, Đắk Nông, Đắk Lắk. Bộ Công an huy động lực lượng bảo vệ, công an địa phương nào phụ trách địa bàn của địa phương đó. Bộ Tài chính phải lo phần kinh phí không được để chậm trễ công tác đền bù. Gần 7.000 lao động địa phương của các tỉnh, thành phố có đường dây đi qua được huy động đào đất, đục đá, gùi cát sỏi, xi măng lên vị trí cột. Lúc cao điểm, toàn tuyến có hàng chục vạn người tham gia. Công nhân lành nghề làm nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật. Nơi nào thuận lợi có máy nổ để trộn bêtông thì còn may, nơi nào hiểm trở quá, không đưa được máy lên núi thì phải trộn bằng tay.
Quyết sách đúng đắn
Khó khăn, thách thức mà các đơn vị tham gia thi công đường dây 500kV mạch 1 như vậy là rất lớn nhưng theo ông Ngãi thì đó lại chưa phải tất cả. Ông cho biết, mặc dù phải chỉ đạo trên toàn tuyến nhưng lúc đó, Ban Chỉ huy chỉ có điện thoại quay tay, tổng đài Icon đặt ở Vinh, Đà Nẵng, Phước Sơn. Máy thi công kéo dây chỉ có Công ty Xây lắp điện 2 được mua 1 bộ của Nhật, các đơn vị khác nghiên cứu mẫu đó rồi tự chế tạo mấy trăm bộ để dùng. Việc xây dựng đường dây 500kV cũng vấp phải sự phản đối của nhiều nhà khoa học và lãnh đạo vì cho rằng quá mạo hiểm. Chính phủ phải đưa hàng chục vị giáo sư, lãnh đạo lên vị trí 375 trên đèo Hải Vân để tận mắt chứng kiến việc dựng cột trên núi. Lúc đó, mọi người mới tin tưởng vào cách làm sáng tạo và dũng cảm của thợ xây lắp điện. Trên công trường, không kể thời tiết, địa hình, không kể gian nan vất vả, gần 240 người đã ngã xuống vì đường dây.
Tuy nhiên, không ai nản lòng, tất cả đều hướng tới mục tiêu duy nhất: đảm bảo tiến độ đúng thời hạn. Thủ tướng đi giám sát thực địa thường xuyên, đơn vị nào khó khăn, ông trực tiếp bàn cách tháo gỡ, địa phương nào trục trặc đền bù, ông giao thời hạn phải hoàn thành cho chính quyền địa phương. Nhờ chính sách động viên tích cực, “thưởng nóng” kịp thời nên mọi công việc đều theo đúng tiến độ. Đúng 19 giờ 6 phút ngày 27/5/1994, tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình tại trạm Đà Nẵng qua đường dây 500kV, chính thức đưa hệ thống 500kV vào vận hành.
Chủ tịch Hội đồng Thành viên EVN NPT, ông Đặng Phan Tường khi đề cập tới vai trò của đường dây 500kV đã khẳng định: Giá trị kinh tế - xã hội của đường dây mạch 1 rất to lớn. Và sau 20 năm, đến nay đường dây vẫn vận hành an toàn, hiệu quả, góp phần rất lớn vào đảm bảo an ninh năng lượng, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế xã hội đất nước. Năm 2005, đường dây 500kV mạch 2 tiếp tục hoàn thành, giải quyết tình trạng thiếu điện rất lớn ở miền Bắc và Hà Nội giai đoạn 2005-2008. Theo kế hoạch, cuối tháng 4/2014, đường dây 500kV mạch 3 sẽ đi vào hoạt động, đảm bảo cung ứng điện cho miền Nam mùa khô 2014 và những năm tiếp theo, tạo ra mạch vòng 500kV khép kín đảm bảo vận hành điện được an toàn.
Được biết, hiện nay đường dây 500kV mạch 1 do 4 công ty truyền tải quản lý vận hành Công ty Truyền tải điện 1 (PTC1) quản lý vận hành 955 vị trí (từ 001 đến 955), dài 406km, từ Lào Cai đến Hà Tĩnh và các trạm biến áp 500kV Hòa Bình, Hà Tĩnh. PTC2 quản lý vận hành 1.352 vị trí (từ 955 đến 2307), dài 587km và Trạm biến áp 500kV Đà Nẵng. PTC3 quản lý vận hành 708 vị trí (từ 2308 đến 3015), dài 314,5km và Trạm biến áp 500kV Pleiku. PTC4 quản lý vận hành 421 vị trí (từ 3015 đến 3436, dài 183km và Trạm biến áp 500kV Phú Lâm.
Để xây dựng đường dây 500kV mạch 1, các đơn vị phải khảo sát khoảng 2.000km đo vẽ địa hình lập mặt cắt dọc; khoan thăm dò 5.200m ở các vị trí có nguy cơ sạt lở; thí nghiệm khoảng 15.000 mẫu đất đá; rà phá bom mìn khoảng 17.000ha. Đào đúc và lắp dựng 3.437 cột tháp sắt; căng 1.487km dây dẫn; xây dựng 22 trạm lặp cáp quang, 19 chốt vận hành đường dây; đổ 280.000m3 bê-tông móng với 23.000 tấn cốt thép; 60.000 tấn cột điện, 23.000 tấn dây dẫn và 930 tấn dây chống sét; 6.300 tấn cách điện. Tổng chi phí đầu tư cho công trình là 5.488,39 tỉ đồng (tương đương 544 triệu USD), thấp hơn 225,59 tỉ đồng so với dự toán. Công trình đã được khấu hao toàn bộ giá trị xây dựng và quyết toán vào năm 2000. |
Ngọc Loan
-
Kỳ I: Phát súng hiệu cho cuộc chinh phục kỳ vĩ
-
Xử phạt Tổng công ty Công nghiệp Dầu thực vật Việt Nam 145 triệu đồng
-
Từ đường dây 500KV Bắc Nam đến “niềm tự hào” của Thủ tướng Australia
-
Tập trung mọi nguồn lực đảm bảo truyền tải điện an toàn, tin cậy trục đường dây 500kV Bắc - Nam trong năm 2024
-
Giữ vững trục truyền tải 500kV Bắc - Nam đảm bảo điện cho miền Bắc mùa nắng nóng
-
Hoàn thành cấp điện tại nơi ở mới của 115 nhân khẩu thôn Kho Vàng
-
EVNSPC ủng hộ hơn 11,5 tỷ đồng cho các tỉnh bị hưởng bởi bão số 3
-
Dự án truyền tải điện hơn 1.540 tỷ đồng tại Bắc Ninh đã có nhà đầu tư
-
Khôi phục cung cấp điện cho gần 99% khách hàng bị ảnh hưởng do bão
-
Truyền tải điện Đông Bắc 3: Giữ vững an ninh hệ thống truyền tải điện trước mưa, lũ