Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Phục hồi kinh tế nhìn từ thị trường lao động

00:30 | 14/04/2022

842 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Thời gian qua, một loạt thông tin đáng mừng đánh dấu sự phục hồi kinh tế của Việt Nam như tốc độ trở lại làm việc của người lao động, mức lương tối thiểu vùng tăng, giá nhiên nguyên liệu giảm… Nhưng nhìn từ góc độ lao động - việc làm, chúng ta không được phép chủ quan trước biến động ngày một nhanh hơn của thị trường, những tiềm ẩn khủng hoảng kinh tế xã hội có thể tác động tiêu cực đến đời sống người lao động.

Thông tin từ Tổng cục Thống kê cho biết, Thị trường lao động quý I/2022 đã dần phục hồi trở lại, đặc biệt là lao động trong ngành dịch vụ. Thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng 1 triệu đồng so với quý trước và tăng 110.000 đồng so với cùng kỳ năm 2021.

Phục hồi kinh tế nhìn từ thị trường lao động
Thu nhập trung bình của người lao động đã có sự cải thiện trong quý I/2022.

Trong tổng 50 triệu lao động có việc làm, so với quý trước và cùng kỳ năm 2021, lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đều giảm lần lượt là 426,8 nghìn người và 192,2 nghìn người.

Lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 82,7 nghìn người so với quý trước nhưng tăng 661,3 nghìn người so với cùng kỳ năm 2021. Lao động trong ngành dịch vụ tăng mạnh so với quý trước (gần 1,5 triệu người) nhưng vẫn thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 khoảng 336,8 nghìn người.

Ở đây cần phải nói thêm rằng các con số thống kê cho thấy đã có dấu hiệu người lao động trở lại làm việc trong các ngành kinh tế chính là công nghiệp, lâm nghiệp thủy sản và dịch vụ. Nhưng thực tế lượng việc làm mới tăng trưởng không nhiều, thu nhập của người lao động vẫn còn thấp.

Theo Tổng cục Thống kê, vấn đề thiếu việc làm ở khu vực dịch vụ đã được cải thiện đáng kể. So với quý trước, số người thiếu việc làm quý I/2022 là 1,3 triệu người, giảm 135.200 người; tỷ lệ thiếu việc làm của lao động là 3,01%, giảm 0,36 điểm phần trăm.

Cũng theo báo cáo về tình hình lao động, việc làm, thị trường lao động quý I/2022 đang dần sôi động trở lại ở nhiều ngành kinh tế, đời sống của người lao động được cải thiện hơn, thu nhập bình quân của người lao động có sự phục hồi.

Nếu như quý III/2021, thị trường lao động đã trải qua những khó khăn chưa từng có trong nhiều năm trở lại đây, với mức thu nhập bình quân của người lao động là 5,2 triệu đồng, là mức sụt giảm nghiêm trọng. Nhưng đến quý I/2022 thu nhập bình quân tháng của người lao động quý I đạt 6,4 triệu đồng, tăng 1 triệu đồng so với quý trước và tăng 110.000 đồng so với cùng kỳ năm 2021.

Điểm sáng nổi bật là thu nhập bình quân tháng của lao động tăng mạnh tại vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là tại TP HCM.

Cụ thể, thu nhập bình quân tháng của lao động vùng Đông Nam Bộ tăng cao nhất trong 6 vùng kinh tế - xã hội, với mức thu nhập bình quân 8,3 triệu đồng, tăng 36,8%, tương ứng tăng 2,2 triệu đồng so với quý trước. Lao động tại TP HCM, Bình Dương và Đồng Nai có mức thu nhập bình quân cao nhất cả nước, khoảng hơn 8 triệu đồng/người/tháng.

Cần lưu rằng trong quý I/2022 vừa qua, số người có việc làm tăng nhanh nhưng lại tăng nhiều ở lao động phi chính thức - lao động thời vụ, thu nhập thấp (33,4 triệu người, tăng 97,5 nghìn người so với quý trước). Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng giảm những vẫn còn ở mức tương đối cao. Lao động "tự sản tự tiêu" giảm nhưng vẫn chưa trở về trạng thái bình thường khi chưa xảy ra đại dịch khi vẫn cao hơn 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước.

Điều này nói lên thực trạng kinh tế Việt Nam đang phục hồi nhưng chưa thực sự mạnh và có tính bền vững. Trong khi đó, chúng ta còn đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu năng lượng để sản xuất cũng như sinh hoạt ngay trong năm 2022. Đặc biệt là ảnh hưởng từ tình hình bất ổn về địa chính trị trên thế giới khiến giá dầu khí tăng cao, giá vận chuyển vẫn đang ở mức đỉnh điểm… sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam có các ngành chủ yếu hướng đến xuất khẩu, sử dụng nhiều năng lượng.

Bởi vậy, điều cần làm của các cơ quan quản lý nhà nước là phải tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, đẩy nhanh thực hiện chương trình phục hồi và phát triển kinh tế. Mặt khác, thực hiện tích cực các chính sách thu hút lao động tự sản tự tiêu và nghiên cứu xây dựng các chương trình đào tạo phù hợp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như thu nhập của người lao động. Chỉ khi nào người lao động có thu nhập cao, có tích lũy thì nền kinh tế mới có thể tăng tốc phục hồi cũng như phát triển.

Việc thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP, Nghị quyết 126/NQ-CP của Chính phủ đã hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn trả lương cho người lao động, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, bảo đảm duy trì việc làm cho người người lao động.

Thành Công

Thị trường lao động quý I/2022 đã dần phục hồi trở lại Thị trường lao động quý I/2022 đã dần phục hồi trở lại
Vì sao cần tăng ngay lương tối thiểu vùng cho người lao động Vì sao cần tăng ngay lương tối thiểu vùng cho người lao động
Khẩn trương hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động Khẩn trương hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng động viên người lao động TKV Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng động viên người lao động TKV

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 ▼500K 80,500 ▼500K
AVPL/SJC HCM 78,500 ▼500K 80,500 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 78,500 ▼500K 80,500 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 77,350 ▲100K 77,450 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 77,250 ▲100K 77,350 ▼50K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 ▼500K 80,500 ▼500K
Cập nhật: 05/09/2024 09:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.350 78.550
TPHCM - SJC 78.500 ▼500K 80.500 ▼500K
Hà Nội - PNJ 77.350 78.550
Hà Nội - SJC 78.500 ▼500K 80.500 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 77.350 78.550
Đà Nẵng - SJC 78.500 ▼500K 80.500 ▼500K
Miền Tây - PNJ 77.350 78.550
Miền Tây - SJC 78.500 ▼500K 80.500 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.350 78.550
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 ▼500K 80.500 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.350
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 ▼500K 80.500 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.350
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.250 78.050
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.170 77.970
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.370 77.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.090 71.590
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.290 58.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.820 53.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.480 50.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.360 47.760
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.410 45.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.220 32.620
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.020 29.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.510 25.910
Cập nhật: 05/09/2024 09:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,645 ▲10K 7,820 ▲5K
Trang sức 99.9 7,635 ▲10K 7,810 ▲5K
NL 99.99 7,650 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,650 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,750 ▲10K 7,860 ▲5K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,750 ▲10K 7,860 ▲5K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,750 ▲10K 7,860 ▲5K
Miếng SJC Thái Bình 7,850 ▼50K 8,050 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 7,850 ▼50K 8,050 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 7,850 ▼50K 8,050 ▼50K
Cập nhật: 05/09/2024 09:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 ▼500K 80,500 ▼500K
SJC 5c 78,500 ▼500K 80,520 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 ▼500K 80,530 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,250 ▲50K 78,550 ▲50K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,250 ▲50K 78,650 ▲50K
Nữ Trang 99.99% 77,150 ▲50K 78,150 ▲50K
Nữ Trang 99% 75,376 ▲49K 77,376 ▲49K
Nữ Trang 68% 50,797 ▲34K 53,297 ▲34K
Nữ Trang 41.7% 30,242 ▲21K 32,742 ▲21K
Cập nhật: 05/09/2024 09:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,267.69 16,432.01 16,959.78
CAD 17,913.18 18,094.12 18,675.27
CHF 28,576.90 28,865.55 29,792.66
CNY 3,426.04 3,460.65 3,572.33
DKK - 3,619.90 3,758.65
EUR 26,806.37 27,077.14 28,277.21
GBP 31,812.00 32,133.33 33,165.39
HKD 3,104.53 3,135.89 3,236.61
INR - 294.87 306.67
JPY 167.64 169.34 177.44
KRW 16.11 17.89 19.52
KWD - 81,208.52 84,458.17
MYR - 5,673.06 5,797.00
NOK - 2,286.07 2,383.21
RUB - 270.05 298.96
SAR - 6,597.16 6,861.16
SEK - 2,368.66 2,469.31
SGD 18,574.54 18,762.17 19,364.77
THB 647.60 719.55 747.14
USD 24,630.00 24,660.00 25,000.00
Cập nhật: 05/09/2024 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,670.00 24,680.00 25,020.00
EUR 26,987.00 27,095.00 28,219.00
GBP 32,044.00 32,173.00 33,167.00
HKD 3,123.00 3,136.00 3,241.00
CHF 28,788.00 28,904.00 29,805.00
JPY 168.50 169.18 177.04
AUD 16,387.00 16,453.00 16,962.00
SGD 18,718.00 18,793.00 19,347.00
THB 712.00 715.00 747.00
CAD 18,050.00 18,122.00 18,674.00
NZD 15,118.00 15,626.00
KRW 17.80 19.65
Cập nhật: 05/09/2024 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24670 24670 25000
AUD 16476 16526 17036
CAD 18156 18206 18666
CHF 29043 29093 29646
CNY 0 3459.3 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27234 27284 27986
GBP 32359 32409 33074
HKD 0 3185 0
JPY 170.64 171.14 176.65
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 0.993 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 15167 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2440 0
SGD 18840 18890 19441
THB 0 691.7 0
TWD 0 772 0
XAU 7950000 7950000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 05/09/2024 09:45