Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Kinh tế Trung Quốc tiếp tục phục hồi mạnh

14:53 | 01/10/2020

Theo dõi PetroTimes trên
|
Kinh tế Trung Quốc tăng mạnh hơn trong tháng 9 khi nhu cầu toàn cầu phục hồi và các biện pháp hỗ trợ của chính phủ có kết quả.

Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) sản xuất của Trung Quốc đã tăng lên 51,5 điểm vào tháng 9, theo dữ liệu do Cục Thống kê Quốc gia công bố hôm thứ tư (30/9). Con số này cao hơn dự báo 51,2 điểm của các nhà kinh tế và 51 điểm của tháng 8. Trong khi đó, PMI sản xuất do Caxin thực hiện ghi nhận mức cao hơn, với 53 điểm, tương đương tháng liền trước. Chỉ số PMI trên 50 có nghĩa là lĩnh vực sản xuất tăng trưởng.

Ngành dịch vụ - một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế, trong tháng 9 cũng ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ, sau một mùa hè bất an. Chỉ số PMI phi sản xuất chính thức của Trung Quốc, bao gồm cả lĩnh vực dịch vụ và xây dựng, đã tăng lên 55,9 vào tháng qua, mức cao nhất kể từ tháng 11/2013 và tốt hơn so với mức 55,2 của tháng 8/2020.

Goldman Sachs cho rằng, sự cải thiện trong lĩnh vực dịch vụ (chiếm khoảng 80% tỷ trọng trong PMI phi sản xuất), được thúc đẩy bởi sự phục hồi của các ngành vận tải, khách sạn và nhà hàng, khi người tiêu dùng Trung Quốc có vẻ sẵn sàng đi du lịch và chi tiêu hơn.

4114-im-238537-1601528680-8950-1601528880
Một nhân viên trình diễn sản phẩm trong buổi livestream vào tháng 9 tại một nhà máy sản xuất bàn chải đánh răng ở Dương Châu, Trung Quốc. Ảnh: Bloomberg.

Giới chức Trung Quốc hy vọng kỳ nghỉ lễ kéo dài 8 ngày, bắt đầu từ thứ năm (1/10), sẽ giúp chi tiêu của người dân cả nước tăng cao hơn nữa, khi các địa phương triển khai những chiến dịch khuyến mại.

Lu Ting, Nhà kinh tế trưởng về Trung Quốc tại Nomura nhận định, kỳ nghỉ sẽ "có khả năng mang lại doanh số bán lẻ và du lịch tốt, do các yếu tố như nhu cầu bị dồn nén cũng như các chương trình khuyến mại của chính phủ và các hạn chế đối với du lịch nước ngoài".

Trước đó, doanh số bán lẻ của Trung Quốc lần đầu tiên trong năm tăng trưởng dương vào tháng 8, với mức tăng 0,5% so với cùng kỳ 2019.

Về phía sản xuất, hai đơn vị đo lường PMI đều chỉ ra nhu cầu từ thị trường nước ngoài được cải thiện. Chỉ số thành phần về đơn đặt hàng xuất khẩu lần đầu tiên trong năm nay tăng vào tháng 9, theo Cục thống kê. Khảo sát của Caixin thì cho biết đơn đặt hàng xuất khẩu đạt mức cao nhất trong ba năm.

"Việc cải thiện nhu cầu bên ngoài đã bổ sung thêm động lực cho sự phục hồi của Trung Quốc, vốn không chỉ dựa vào nhu cầu trong nước", Serena Zhou, Nhà kinh tế của Mizuho Securities, đánh giá.

Cỗ máy xuất khẩu của Trung Quốc đã nhiều lần đánh bại dự báo ảm đạm của các chuyên gia kinh tế trong năm nay. Việc quốc gia này khôi phục lại hoạt động nhà máy tương đối nhanh chóng vào mùa xuân đã giúp họ có thể sản xuất thiết bị y tế và hàng điện tử gia dụng khi phần còn lại của thế giới phải vật lộn với đại dịch.

Trong khi một số nhà kinh tế dự kiến nhu cầu đối với hàng hóa liên quan đến đại dịch sẽ suy yếu trong những tháng tới, bà Serena Zhou tin rằng nhu cầu toàn cầu phục hồi sẽ tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc.

Về mặt lao động, cả báo cáo PMI chính thức và của Caixin đều cho thấy việc tuyển dụng tăng thêm trong tháng 9. Ngoài ra, các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và thúc đẩy tiêu thụ nội địa của Bắc Kinh bắt đầu mang lại kết quả tích cực vào tháng qua, giúp hoạt động của các nhà máy nhỏ tiến vào vùng tích cực.

Chỉ số phụ về hoạt động của các nhà máy nhỏ đã tăng lên 50,1 điểm sau khi Bắc Kinh ra lệnh các ngân hàng nhà nước gia hạn những khoản vay giá rẻ trị giá hàng tỷ USD cho công ty nhỏ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch.

Theo Vnexpress.net

2 nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc ngày càng xa nhau và chọn lối đi riêng2 nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc ngày càng xa nhau và chọn lối đi riêng
NHNN tiếp tục giảm lãi suất điều hành để NHNN tiếp tục giảm lãi suất điều hành để "gỡ" khó cho nền kinh tế
Gặp mặt kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Ban Kinh tế Trung ươngGặp mặt kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Ban Kinh tế Trung ương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 88,000 90,000
AVPL/SJC HCM 88,000 90,000
AVPL/SJC ĐN 88,000 ▲1000K 90,000 ▲1000K
Nguyên liệu 9999 - HN 88,550 ▲50K 88,950 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 88,450 ▼50K 88,850 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 88,000 90,000
Cập nhật: 31/10/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 88.400 89.500
TPHCM - SJC 88.000 90.000
Hà Nội - PNJ 88.400 89.500
Hà Nội - SJC 88.000 90.000
Đà Nẵng - PNJ 88.400 89.500
Đà Nẵng - SJC 88.000 90.000
Miền Tây - PNJ 88.400 89.500
Miền Tây - SJC 88.000 90.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 88.400 89.500
Giá vàng nữ trang - SJC 88.000 90.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 88.400
Giá vàng nữ trang - SJC 88.000 90.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 88.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 88.300 89.100
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 88.210 89.010
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 87.310 88.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 81.220 81.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 65.580 66.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 59.340 60.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 56.670 58.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 53.100 54.500
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.870 52.270
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.820 37.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 32.160 33.560
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 28.150 29.550
Cập nhật: 31/10/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,760 ▲10K 8,960 ▲10K
Trang sức 99.9 8,750 ▲10K 8,950 ▲10K
NL 99.99 8,810 ▲10K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,780 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,850 ▲10K 8,970 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,850 ▲10K 8,970 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,850 ▲10K 8,970 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,800 9,000
Miếng SJC Nghệ An 8,800 9,000
Miếng SJC Hà Nội 8,800 9,000
Cập nhật: 31/10/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,186.86 16,350.36 16,875.03
CAD 17,706.58 17,885.43 18,459.36
CHF 28,461.90 28,749.39 29,671.94
CNY 3,461.04 3,496.00 3,608.19
DKK - 3,610.62 3,748.92
EUR 26,737.61 27,007.69 28,203.90
GBP 31,974.83 32,297.81 33,334.22
HKD 3,168.74 3,200.75 3,303.46
INR - 299.78 311.77
JPY 160.39 162.01 169.72
KRW 15.88 17.64 19.14
KWD - 82,270.98 85,560.74
MYR - 5,714.29 5,838.96
NOK - 2,258.89 2,354.81
RUB - 248.04 274.59
SAR - 6,709.69 6,977.99
SEK - 2,321.40 2,419.97
SGD 18,647.75 18,836.11 19,440.54
THB 662.61 736.23 764.43
USD 25,060.00 25,090.00 25,450.00
Cập nhật: 31/10/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,110.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,910.00 27,018.00 28,125.00
GBP 32,217.00 32,346.00 33,317.00
HKD 3,188.00 3,201.00 3,305.00
CHF 28,661.00 28,776.00 29,645.00
JPY 162.26 162.91 170.05
AUD 16,309.00 16,374.00 16,871.00
SGD 18,792.00 18,867.00 19,399.00
THB 730.00 733.00 765.00
CAD 17,838.00 17,910.00 18,427.00
NZD 14,875.00 15,370.00
KRW 17.59 19.34
Cập nhật: 31/10/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25104 25104 25450
AUD 16254 16354 16917
CAD 17810 17910 18461
CHF 28808 28838 29632
CNY 0 3515.4 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 27003 27103 27976
GBP 32277 32327 33429
HKD 0 3280 0
JPY 162.91 163.41 169.92
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 14895 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18743 18873 19595
THB 0 694.2 0
TWD 0 790 0
XAU 8800000 8800000 9000000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 31/10/2024 20:00