Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Đi tìm sự cân bằng lợi ích từ chính sách giá năng lượng

17:11 | 06/01/2015

631 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Năng lượng và phát triển năng lượng hiện đang được đặt ra là vấn đề cấp bách đối với mọi quốc gia, vùng lãnh thổ. Ở Việt Nam, vấn đề này đã được cụ thể hoá bằng các Chiến lược phát triển của ngành điện, than và dầu khí – 3 trụ cột của ngành năng lượng. Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, để đạt được những mục tiêu đề ra trong các Chiến lược thì phải xây dựng được chính giá năng lượng theo cơ chế giá thị trường, bởi đây là động lực căn bản nhất thúc đẩy ngành năng lượng phát triển.

 

Nhu cầu vốn đầu tư của ngành điện lên tới 100.000 tỉ đồng/năm.

Vấn đề cấp bách

Lâu nay, vấn đề vốn cho đầu tư phát triển các dự án năng lượng, đặc biệt là đối với các dự án điện, khai thác than luôn là bài toán khó đối với ngành điện, than. Nhu cầu vốn đầu tư mỗi năm lên tới hơn 100.000 tỉ đồng đối với ngành điện và 26.000 tỉ đồng với ngành than mà giới chuyên gia đưa ra tại hội thảo khoa học “Phát triển thị trường năng lượng Việt Nam” đã phần nào cho thấy điều đó. Trong khi nhu cầu vốn cho các dự án phát triển hệ thống điện, khai thác than để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của nền kinh tế là rất lớn thì giá điện, giá than lại ở mức khá thấp, không đảm bảo khả năng tích luỹ vốn để tái đầu tư cho ngành điện và than. Và đây chính là cái “khó” mà ngành năng lượng đang phải đối diện, thiếu vốn, khó khăn về vốn trong đầu tư, phát triển các dự án năng lượng nhưng lại không được phép để nền kinh tế thiếu điện, thiếu than và thiếu khí. Chính vì vậy, vấn đề định hướng xây dựng chính sách giá năng lượng trong cơ chế thị trường được xem là một trong những nội dung quan trọng bậc nhất, tạo tiền đề phát triển thị trường năng lượng của Việt Nam.

GS.TS Nguyễn Minh Duệ - Chủ nhiệm Hội đồng khoa học Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) cho rằng, chính sách giá năng lượng nói chung, giá điện nói riêng cần được xây dựng phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội, chiến lược và quy hoạch năng lượng quốc gia.

GS.TS Duệ phân tích: Các dạng năng lượng cụ thể như xăng, dầu, khí, than và điện là những sản phẩm hàng hóa đặc biệt được sử dụng rộng rãi trong đời sống và sản xuất, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội quốc gia. Vì vậy, chính sách giá năng lượng không thể tách rời chính sách, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn của đất nước. Một khi giá năng lượng được xây dựng có hệ thống, hài hòa thông qua quy hoạch năng lượng tổng thể, hệ thống giá được xây dựng dựa trên biên dài hạn (đặc biệt là đối với giá điện) sẽ trở thành công cụ điều hòa các hoạt động ngành năng lượng và nền kinh tế, góp phần thúc đẩy thị trường năng lượng phát triển bền vững.

Tính khả thi về tài chính trong định hướng xây dựng giá năng lượng nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh năng lượng có nguồn thu tài chính đủ duy trì đầu tư, đảm bảo phát triển bền vững và an ninh năng lượng quốc gia được xem là mục đích quan trọng mà định hướng xây dựng chính sách giá năng lượng cần đạt được.

Đặc biệt, chính sách giá năng lượng cũng cần được xem như là đòn bẩy của sản xuất, là công cụ quan trọng quản lý nhu cầu bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường. Bởi sử dụng và bảo tồn năng lượng một cách hợp lý, hài hòa, minh bạch sẽ thúc đẩy tiết kiệm tài nguyên năng lượng, thực hiện phát triển xanh, phát triển bền vững năng lượng. Theo phân tích của các chuyên gia, chính sách giá năng lượng cũng phải được xây dựng trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa thị trường trong nước với thị trường thế giới. Nguyên nhân là do nước ta hiện đã có quan hệ xuất – nhập khẩu năng lượng với khá nhiều nước trên thế giới, nên giá năng lượng sẽ chịu tác động lớn của sự lên/xuống theo giá thế giới.

Tạo động lực phát triển

Như đã đề cập tới ở trên, giá năng lượng là một vấn đề lớn có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến cả nền kinh tế - xã hội, hoạt động của các doanh nghiệp cũng như đời sống của nhân dân. TS Võ Trí Thành – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương khi đề cập tới câu chuyện này đã đưa quan điểm: Đặc trưng của ngành năng lượng đòi hỏi rất nhiều tiền. Việt Nam đang là nước nghèo, nhưng luôn phải đặt vấn đề an ninh năng lượng lên hàng đầu. Đây cũng là vấn đề lớn liên quan đến chiến lược. Ngành năng lượng không chỉ đơn thuần là điện, xăng dầu… Trước cứ cho rằng, năng lượng không thể xuất nhập khẩu được, nhưng hiện nay chúng ta đang bắt đầu nhìn ra khu vực và thế giới. Và thực tế, khu vực ASEAN đang hình thành cơ chế mua bán lẫn nhau và Việt Nam cũng đang tham gia thị trường này.

Vấn đề cạnh tranh của ngành năng lượng nếu ở phân khúc khác nhau thì tính chất cũng khác nhau và nói chung cần có giới hạn. Không thể một công ty xây lắp ống dẫn dầu chạy từ Hà Nội vào TP Hồ Chí Minh, mà cần có sự tham gia của nhiều thành phần. Ngay như trong ngành điện, tuy là độc quyền tự nhiên nhưng vẫn phải cố gắng chia nhỏ trong lĩnh vực phát điện, truyền tải, phân phối… mới có thể tạo ra được cạnh tranh nội ngành.

Xuất phát từ quan điểm trên, TS Võ Trí Thành cho rằng: Phải cương quyết cắt giảm trợ cấp đối với các lĩnh vực trong ngành năng lượng. Với những người nghèo, Chính phủ sẽ có hỗ trợ trực tiếp, điều này Việt Nam đang làm rất đúng. Điều này sẽ tăng tính minh bạch và cạnh tranh cho thị trường.

“Với riêng ngành điện, chúng ta phải nhìn ngành điện như một ngành thương mại, có xuất có nhập. Chỉ có như vậy mới đạt được tính minh bạch, cạnh tranh và đây cũng chính là nguồn lực để phân bổ hiệu quả hơn trong đầu tư, phát triển ngành điện. Khi đó, câu chuyện năng lượng khi nói đến không còn là những câu chuyện bức xúc, là những câu chuyện để chúng ta tồn tại, mà là câu chuyện để chúng ta phát triển” – TS Thành nhấn mạnh.

Nói như vậy để thấy rằng, giá năng lượng cần phải được điều chỉnh một cách hợp lý, tiến tới giá thị trường. Và dù có khá nhiều quan điểm khác nhau để cụ thể hoá mục tiêu này nhưng phải khẳng định rằng, dù chính sách giá năng lượng được xây dựng theo cơ chế thị trường, nhưng vai trò của nhà nước vẫn phải được đề cao trong việc xác lập, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện chính sách giá năng lượng nói chung. Nguyên tắc này có thể xem là “mấu chốt” quan trọng nhằm đảm bảo ổn định vĩ mô, hài hòa lợi ích và sự phát triển cung - cầu hợp lý, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Đặc biệt, trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế thị trường như ở nước ta hiện nay, không thể thiếu vai trò nhà nước đối với chính sách giá năng lượng dài hạn, ở tầm vĩ mô. Khi thị trường năng lượng đã hình thành và phát triển ổn định, vai trò quản lý nhà nước sẽ từng bước chuyển dần sang gián tiếp để phù hợp với xu thế phát triển chung.

Cần xem chính sách giá năng lượng là một trong những đột phá mới, tiến tới xóa bỏ độc quyền, bao cấp trong sản xuất và tiêu dùng năng lượng. Chính sách phải được xây dựng phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội và chính sách năng lượng quốc gia. Chính sách giá năng lượng phải được xây dựng trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa thị trường trong nước và thế giới. Đề cao vai trò Nhà nước trong việc xác lập và kiểm soát thực hiện chính sách giá năng lượng, đặc biệt đối với dạng năng lượng mang tính độc quyền. Nhà nước chỉ điều tiết giá năng lượng thông qua chính sách thuế và các công cụ quản lý khác…

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi

Thanh Ngọc (tổng hợp)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,450 ▲150K 77,600 ▲150K
Nguyên liệu 999 - HN 77,350 ▲150K 77,500 ▲150K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 11/09/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.500 ▲150K 78.650 ▲150K
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 77.500 ▲150K 78.650 ▲150K
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 77.500 ▲150K 78.650 ▲150K
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 77.500 ▲150K 78.650 ▲150K
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.500 ▲150K 78.650 ▲150K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.500 ▲150K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.500 ▲150K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.400 ▲200K 78.200 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.320 ▲200K 78.120 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.520 ▲200K 77.520 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.230 ▲180K 71.730 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.400 ▲150K 58.800 ▲150K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.930 ▲140K 53.330 ▲140K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.580 ▲130K 50.980 ▲130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.450 ▲120K 47.850 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.500 ▲120K 45.900 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.280 ▲80K 32.680 ▲80K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.080 ▲80K 29.480 ▲80K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.560 ▲70K 25.960 ▲70K
Cập nhật: 11/09/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,650 ▲15K 7,825 ▲15K
Trang sức 99.9 7,640 ▲15K 7,815 ▲15K
NL 99.99 7,655 ▲15K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,655 ▲15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,755 ▲15K 7,865 ▲15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,755 ▲15K 7,865 ▲15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,755 ▲15K 7,865 ▲15K
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 11/09/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,400 ▲150K 78,650 ▲150K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,400 ▲150K 78,750 ▲150K
Nữ Trang 99.99% 77,300 ▲150K 78,250 ▲150K
Nữ Trang 99% 75,475 ▲148K 77,475 ▲148K
Nữ Trang 68% 50,865 ▲102K 53,365 ▲102K
Nữ Trang 41.7% 30,284 ▲63K 32,784 ▲63K
Cập nhật: 11/09/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,939.04 16,100.04 16,617.44
CAD 17,605.16 17,782.99 18,354.48
CHF 28,377.43 28,664.07 29,585.25
CNY 3,381.16 3,415.31 3,525.60
DKK - 3,568.64 3,705.50
EUR 26,432.68 26,699.67 27,883.52
GBP 31,344.54 31,661.15 32,678.64
HKD 3,069.45 3,100.46 3,200.10
INR - 291.66 303.34
JPY 168.57 170.27 178.42
KRW 15.86 17.62 19.22
KWD - 80,229.45 83,441.42
MYR - 5,615.37 5,738.15
NOK - 2,225.94 2,320.57
RUB - 257.06 284.58
SAR - 6,526.13 6,787.40
SEK - 2,325.96 2,424.84
SGD 18,395.49 18,581.30 19,178.44
THB 645.76 717.51 745.03
USD 24,355.00 24,385.00 24,725.00
Cập nhật: 11/09/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,400.00 24,410.00 24,750.00
EUR 26,601.00 26,708.00 27,823.00
GBP 31,571.00 31,698.00 32,684.00
HKD 3,089.00 3,101.00 3,205.00
CHF 28,567.00 28,682.00 29,582.00
JPY 169.63 170.31 178.15
AUD 16,038.00 16,102.00 16,606.00
SGD 18,532.00 18,606.00 19,157.00
THB 711.00 714.00 746.00
CAD 17,725.00 17,796.00 18,338.00
NZD 14,840.00 15,344.00
KRW 17.58 19.40
Cập nhật: 11/09/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24390 24390 24720
AUD 16141 16191 16694
CAD 17851 17901 18356
CHF 28833 28883 29436
CNY 0 3415.1 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 26852 26902 27612
GBP 31892 31942 32595
HKD 0 3185 0
JPY 171.64 172.14 177.65
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.011 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 14887 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2395 0
SGD 18654 18704 19255
THB 0 689.7 0
TWD 0 772 0
XAU 7900000 7900000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 11/09/2024 23:00