Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Để sản xuất công nghiệp tiếp đà hồi phục

11:00 | 10/02/2024

156 lượt xem
|
(PetroTimes) - Ngay từ tháng đầu tiên của năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) đã tăng trưởng mạnh mẽ so với cùng kỳ năm 2023 trên cả nước (60/63 tỉnh, thành phố). Đặc biệt, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,3%, dần lấy lại vai trò dẫn dắt phát triển công nghiệp nước ta. Đây là những tín hiệu rất tích cực trong quá trình phục hồi kinh tế Việt Nam trong tương lai.

Báo cáo của Bộ Công Thương nhấn mạnh, kết quả tích cực về chỉ số IIP tiếp nối đà phục hồi sản xuất từ quý IV/2023 nhờ các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, các chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng trong giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các dự án công nghiệp trọng điểm, kết quả thu hút, giải ngân vốn FDI năm 2023 giúp tăng năng lực sản xuất trong nước và sự phục hồi của thị trường thế giới.

Việc bãi bỏ thuế nhập khẩu hàng công nghiệp của Thụy Sĩ sẽ làm cho sản phẩm của Việt Nam bình đẳng với tất cả các nước khác. Ảnh minh họa
Công nghiệp chế biến - chế tạo tăng trưởng mạnh, dẫn dắt đà phục hồi nền kinh tế Việt Nam.

Chỉ số sản xuất tháng 1/2024 của hầu hết ngành trọng điểm cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao ở mức hai chữ số như: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 17,2%; sản xuất thuốc lá tăng 34,7%; dệt tăng 46,2%; sản xuất trang phục tăng 20,9%; sản xuất thiết bị điện tăng 43,3%; sản xuất giường tủ bàn ghế tăng 66,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 24%...

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số sản phẩm tăng cao ở mức hai chữ số như: Khí hóa lỏng LPG tăng 16,8%; xăng dầu các loại tăng 25,8%; thép cán tăng 59,6%; ô tô tăng 14,6%; xe máy tăng 18,6%; Vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 57%; quần áo mặc thường tăng 25,8%; giầy dép da tăng 13,6%; phân NPK tăng 40,7%...

Đáng chú ý, chỉ số IIP tháng 1/2024 tăng ở 60 địa phương và giảm ở 3 địa phương trên cả nước. Một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng.

Đây là điểm sáng tích cực trong bối cảnh nền kinh tế thế giới còn tiềm ẩn nhiều thách thức thì tăng trưởng sản xuất công nghiệp thể hiện sự chủ động của cộng đồng doanh nghiệp trong việc lấy lại đà tăng trưởng, bổ sung lượng hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu.

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, tăng trưởng của sản xuất công nghiệp trong tháng 1/2024 là sự nỗ lực của các bộ, ngành, cộng đồng doanh nghiệp đã cụ thể hoá được các giải pháp giảm tồn kho, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá.

Đạt được kết quả này, một số chuyên gia kinh tế nhìn nhận, hiệp hội, ngành hàng đã tích cực tăng cường hoạt động kết nối doanh nghiệp, đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp tái cấu trúc, giảm chi phí và giá thành sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, qua đó cải thiện hiệu quả và thích ứng linh hoạt với tình hình mới.

Căn cứ vào chỉ tiêu phát triển kinh tế của Chính phủ, Quốc hội đề ra cho năm 2024, Bộ Công Thương đặt mục tiêu chỉ số sản xuất công nghiệp tăng khoảng 7 - 8% so với năm 2023.

Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, trong năm 2024, các ngành công nghiệp trong nước dự kiến sẽ tiếp tục gặp nhiều thách thức. Kinh tế toàn cầu dự kiến hồi phục nhưng với tốc độ rất chậm. Hơn nữa, trong nước sức mua dự kiến vẫn sẽ chậm hồi phục. Việc tiếp cận và sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp vẫn sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Thị trường bất động sản suy giảm sẽ tiếp tục ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều ngành sản xuất có liên quan.

Với vai trò trụ cột của nền kinh tế, sản xuất công nghiệp đòi hỏi những lực đẩy mới mạnh mẽ, toàn diện hơn để hồi phục trong năm 2024. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, dự báo năm 2024 sản xuất công nghiệp sẽ vẫn sẽ gặp khó khăn, cần có nhiều biện pháp tích cực hỗ trợ sản xuất và các biện pháp kích thích tiêu dùng để giải phóng hàng tồn kho.

Để có thể lấy lại đà tăng trưởng cao cần rất nhiều sự hỗ trợ, tạo điều kiện của Chính phủ, các bộ, ngành, hệ thống ngân hàng, các địa phương tiếp tục có các biện pháp tích cực hơn nữa hỗ trợ sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đầu ra cho sản xuất thông qua các biện pháp kích cầu tiêu dùng trong nước, tăng cường xúc tiến thương mại để mở rộng đơn hàng xuất khẩu, khơi thông lượng hàng hóa tồn kho cao ở cuối năm 2023.

Để sản xuất công nghiệp tiếp đà hồi phục
Chính phủ dành nhiều ưu đãi thuế cho các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.

Ở góc độ cơ quan nhà nước, để góp phần bảo đảm chỉ tiêu tăng trưởng công nghiệp 7 - 8%, ông Trương Thanh Hoài - Cục trưởng Cục Công nghiệp - Bộ Công Thương cho biết, ngành Công Thương, tiếp tục chủ động triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã được Chính phủ thông qua nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp - đặc biệt trong các ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, da - giày và các ngành nền tảng như ô tô, cơ khí, thép...

Ngoài ra, Hiệp hội, ngành hàng cũng theo dõi sát tình hình thế giới, đặc biệt là tình hình của các thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống của Việt Nam qua đó kịp thời đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn với Chính phủ và các cơ quan nhà nước.

Bên cạnh đó, mới đây Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã ký Quyết định số 71/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 68/QĐ-TTg (ngày 18/1/2017) về việc phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025. Để thực hiện chương trình, cần hơn 870 tỷ đồng.

Theo đó, từ năm 2021 đến năm 2025, Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ thực hiện: kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng ở trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Các hoạt động chính của chương trình gồm: khảo sát, đánh giá nhu cầu, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kiểm soát chất lượng cho sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; tổ chức đánh giá, xác nhận năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; tổ chức chương trình xúc tiến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp hỗ trợ; tổ chức hội chợ triển lãm trưng bày các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, tìm kiếm, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước...

Quyết định số 71/QĐ-TTg nêu rõ, kinh phí thực hiện chương trình giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2025 từ nguồn sự nghiệp kinh tế thuộc ngân sách trung ương và các nguồn vốn khác dành cho các hoạt động phát triển công nghiệp hỗ trợ do Bộ Công Thương quản lý và tổ chức thực hiện dự kiến là 870,7 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách nhà nước là 750,2 tỷ đồng, nguồn vốn khác là 120,5 tỷ đồng.

Có thể thấy rằng, việc tập trung khôi phục sản xuất công nghiệp không chỉ tạo nền tảng khôi phục sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu còn là bệ phóng để phục hồi, phát triển kinh tế nước ta từng nay đến hết năm 2025.

Chính phủ đã quyết định dành hơn 870 tỷ đồng cho phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2025.

P.V

IIP tháng 1/2024 tăng trưởng 18,3%IIP tháng 1/2024 tăng trưởng 18,3%
Tết đầm ấm, an vui của công nhân lao động TKVTết đầm ấm, an vui của công nhân lao động TKV
TKV thực hiện tốt TKV thực hiện tốt "3 An" trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,150 ▲700K 82,150 ▲200K
AVPL/SJC HCM 80,150 ▲700K 82,150 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 80,150 ▲700K 82,150 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 69,250 ▲150K 70,050 ▲150K
Nguyên liệu 999 - HN 69,150 ▲150K 69,950 ▲150K
AVPL/SJC Cần Thơ 80,150 ▲700K 82,150 ▲200K
Cập nhật: 11/03/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.800 ▲700K 70.050 ▲700K
TPHCM - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▼200K
Hà Nội - PNJ 68.800 ▲700K 70.050 ▲700K
Hà Nội - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▼200K
Đà Nẵng - PNJ 68.800 ▲700K 70.050 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▼200K
Miền Tây - PNJ 68.800 ▲700K 70.050 ▲700K
Miền Tây - SJC 80.200 ▲700K 82.200 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.800 ▲700K 70.050 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.800 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.800 ▲700K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.700 ▲650K 69.500 ▲650K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.880 ▲490K 52.280 ▲490K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.410 ▲380K 40.810 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.660 ▲270K 29.060 ▲270K
Cập nhật: 11/03/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,945 ▲80K 7,110 ▲80K
Trang sức 99.9 6,935 ▲80K 7,100 ▲80K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 7,000 ▲80K 7,130 ▲80K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 7,000 ▲80K 7,130 ▲80K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 7,000 ▲80K 7,130 ▲80K
NL 99.99 6,950 ▲80K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,940 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,020 ▲60K 8,220 ▲25K
Miếng SJC Nghệ An 8,020 ▲60K 8,220 ▲25K
Miếng SJC Hà Nội 8,020 ▲60K 8,220 ▲25K
Cập nhật: 11/03/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 80,200 ▲700K 82,200 ▲200K
SJC 5c 80,200 ▲700K 82,220 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 80,200 ▲700K 82,230 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,900 ▲550K 70,100 ▲500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,900 ▲550K 70,200 ▲500K
Nữ Trang 99.99% 68,800 ▲550K 69,600 ▲500K
Nữ Trang 99% 67,411 ▲495K 68,911 ▲495K
Nữ Trang 68% 45,483 ▲340K 47,483 ▲340K
Nữ Trang 41.7% 27,176 ▲208K 29,176 ▲208K
Cập nhật: 11/03/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,863.72 16,023.96 16,538.85
CAD 17,809.02 17,988.91 18,566.93
CHF 27,393.64 27,670.34 28,559.46
CNY 3,356.75 3,390.66 3,500.13
DKK - 3,547.63 3,683.66
EUR 26,246.03 26,511.14 27,686.51
GBP 30,796.68 31,107.76 32,107.32
HKD 3,068.22 3,099.21 3,198.80
INR - 296.83 308.71
JPY 162.60 164.24 172.10
KRW 16.27 18.08 19.72
KWD - 79,996.41 83,198.69
MYR - 5,207.70 5,321.55
NOK - 2,311.23 2,409.47
RUB - 258.35 286.01
SAR - 6,546.03 6,808.07
SEK - 2,357.10 2,457.30
SGD 18,040.67 18,222.90 18,808.44
THB 614.71 683.01 709.20
USD 24,420.00 24,450.00 24,790.00
Cập nhật: 11/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,033 16,133 16,583
CAD 18,025 18,125 18,675
CHF 27,671 27,776 28,576
CNY - 3,389 3,499
DKK - 3,567 3,697
EUR #26,499 26,534 27,744
GBP 31,235 31,285 32,245
HKD 3,076 3,091 3,226
JPY 164.57 164.57 172.52
KRW 17.03 17.83 20.63
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,321 2,401
NZD 14,947 14,997 15,514
SEK - 2,358 2,468
SGD 18,072 18,172 18,772
THB 642.79 687.13 710.79
USD #24,393 24,473 24,813
Cập nhật: 11/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,420.00 24,440.00 24,760.00
EUR 26,380.00 26,486.00 27,649.00
GBP 30,947.00 31,134.00 32,086.00
HKD 3,084.00 3,096.00 3,197.00
CHF 27,519.00 27,630.00 28,507.00
JPY 163.37 164.03 171.83
AUD 15,963.00 16,027.00 16,514.00
SGD 18,145.00 18,218.00 18,765.00
THB 676.00 679.00 708.00
CAD 17,901.00 17,973.00 18,508.00
NZD 14,939.00 15,432.00
KRW 17.97 19.65
Cập nhật: 11/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24420 24470 24885
AUD 16076 16126 16532
CAD 18049 18099 18508
CHF 27876 27926 28348
CNY 0 3391.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26674 26724 27240
GBP 31417 31467 31933
HKD 0 3115 0
JPY 165.6 166.1 170.67
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0262 0
MYR 0 5337 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14993 0
PHP 0 370 0
SEK 0 2360 0
SGD 18347 18347 18712
THB 0 654.5 0
TWD 0 777 0
XAU 8000000 8000000 8150000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 11/03/2024 17:00