Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Bị “cắt máu” tiền gửi, nợ xấu ngân hàng tăng cao

22:30 | 30/10/2020

142 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Dịch Covid-19 tác động nghiêm trọng mọi mặt đời sống kinh tế khiến người gửi tiền ngân hàng là doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn… là nguyên nhân nợ xấu của 14/16 ngân hàng thương mại tăng tới 30%.

Thông tin trên được bà Nguyễn Thị Hồng - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) - đưa ra tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ, hôm nay (30/10).

Tại cuộc họp báo, tình hình thực hiện Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu trong 3 năm được đề cập tới. Đáng nói, hiện có 14/16 ngân hàng thương mại (NHTM) công bố kết quả kinh doanh trong quý III nợ xấu tăng 30%. Báo giới đề nghị Ngân hàng Nhà nước nêu nguyên nhân nợ xấu tăng từ đầu năm và giải pháp cụ thể trong bối cảnh Thông tư 01 sắp đến hết hạn.

Lý giải vấn đề nói trên, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết: Tình hình nợ xấu, xử lý nợ xấu được Đảng, Chính phủ, Quốc hội quan tâm. Quốc hội ban hành Nghị quyết 42 thí điểm xử lý nợ xấu. Các đơn vị đã tích cực triển khai thực hiện trong gần 3 năm qua với hiệu quả cao, các vướng mắc khó khăn được khắc phục.

Bị “cắt máu” tiền gửi, nợ xấu ngân hàng tăng cao - 1
Bà Nguyễn Thị Hồng - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (ảnh: Đoàn Bắc)

Theo thống kê, luỹ kế từ 15/8/2017 (thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực) đến ngày 30/9/2020, đã có hơn 313 nghìn tỷ đồng nợ xấu được xử lý, nợ xấu nội bảng 167,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 53,8%, xử lý các khoản nợ ngoài bảng cân đối đạt 74,9 nghìn tỷ đồng, các khoản nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC) dưới hình thức trái phiếu đặc biệt được 69,5 nghìn tỷ đồng.

“Trong 9 tháng năm 2020, đại dịch Covid-19 trên thế giới diễn biến phức tạp, tác động nghiêm trọng mọi mặt đời sống kinh tế khiến người gửi tiền ngân hàng là doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn, nguồn thu giảm, khả năng trả nợ khó khăn. Trong đó, các ngân hàng là trung gian tài chính cũng bị ảnh hưởng. Đó là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu tăng” – bà Hồng cho hay.

Phó Thống đốc NHNN cũng đề cập tới một nguyên nhân khác là vấn đề kỹ thuật tính toán. Trong bối cảnh tác động của Covid-19, tình hình kinh tế khó khăn, cầu tín dụng không cao như những năm trước, do đó, tỉ lệ tương đối nợ xấu/dư nợ phát sinh cũng tăng lên.

Theo bà Hồng, trong thời gian qua NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể: NHNN đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện cơ cấu miễn giảm lãi, hoãn giãn nợ, gỡ khó cho doanh nghiệp và người dân.

“Thời gian tới, tình hình dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, chưa rõ thời điểm dịch kết thúc. Nếu dịch tiếp tục gây khó khăn cho doanh nghiệp, thương mại quốc tế, dịch vụ thì nhiều khả năng làm nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng lên” - bà Hồng cảnh báo và cho biết NHNN đã giao các đơn vị chức năng đánh giá phân tích ứng phó tình hình, bảo đảm an toàn hệ thống, các TCTD.

Cũng tại cuộc họp báo, trả lời về việc giải ngân vốn đầu tư công, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết: Theo báo cáo kết quả tháng 10 và 10 tháng năm 2020, giải ngân vốn đầu tư công có cải thiện trên 68% kế hoạch giao, cao hơn 14 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái, so với 9 tháng cao hơn 10 điểm phần trăm.

Bị “cắt máu” tiền gửi, nợ xấu ngân hàng tăng cao - 2
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương (ảnh: Đoàn Bắc)

“Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kiến nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện các giải pháp đã đề ra và đã giải ngân được 68%. Chúng ta có 3 tháng để thực hiện giải ngân 32% còn lại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kỳ vọng năm 2020 sẽ đạt tỉ lệ giải ngân cao” – ông Phương nói.

Về các nguyên nhân khách quan, Thứ trưởng Trần Quốc Phương thông tin: Khu vực miền Trung - một vùng kinh tế trọng điểm lớn của đất nước - chịu ảnh hưởng nặng nề do thiên tai vừa qua, nhiều cơ sở hạ tầng, tiến độ thi công các dự án đầu tư công khu vực này bị ảnh hưởng nhiều, do vậy ảnh hưởng đến kết quả giải ngân của vùng và tác động đến kết quả của cả nước.

“Tuy nhiên, với kết quả khả quan trong 10 tháng qua, trong những tháng cuối năm, với quyết tâm lớn của các bộ, ngành, địa phương, tiến độ giải ngân sẽ đạt kết quả khả quan” - ông Phương cho biết thêm.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,400 77,550
Nguyên liệu 999 - HN 77,300 77,450
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 06/09/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.400 78.600
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 77.400 78.600
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 77.400 78.600
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 77.400 78.600
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.400 78.600
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.400
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.300 78.100
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.220 78.020
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.420 77.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.140 71.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.330 58.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.860 53.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.520 50.920
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.390 47.790
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.440 45.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.240 32.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.040 29.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.520 25.920
Cập nhật: 06/09/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,645 7,820
Trang sức 99.9 7,635 7,810
NL 99.99 7,650
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,750 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,750 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,750 7,860
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 06/09/2024 21:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,300 78,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,300 78,700
Nữ Trang 99.99% 77,200 78,200
Nữ Trang 99% 75,426 77,426
Nữ Trang 68% 50,831 53,331
Nữ Trang 41.7% 30,263 32,763
Cập nhật: 06/09/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,138.45 16,301.47 16,825.30
CAD 17,766.85 17,946.31 18,522.99
CHF 28,510.62 28,798.61 29,724.01
CNY 3,400.75 3,435.10 3,546.01
DKK - 3,598.10 3,736.07
EUR 26,648.94 26,918.12 28,111.57
GBP 31,610.56 31,929.86 32,955.89
HKD 3,076.58 3,107.66 3,207.52
INR - 292.40 304.11
JPY 167.72 169.42 177.53
KRW 16.02 17.80 19.41
KWD - 80,376.60 83,594.21
MYR - 5,624.37 5,747.33
NOK - 2,271.17 2,367.72
RUB - 260.11 287.95
SAR - 6,535.14 6,796.75
SEK - 2,356.22 2,456.39
SGD 18,476.10 18,662.72 19,262.43
THB 648.49 720.54 748.17
USD 24,400.00 24,430.00 24,770.00
Cập nhật: 06/09/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,500.00 24,510.00 24,850.00
EUR 26,884.00 26,992.00 28,112.00
GBP 31,902.00 32,030.00 33,021.00
HKD 3,102.00 3,114.00 3,219.00
CHF 28,698.00 28,813.00 29,716.00
JPY 167.85 168.52 176.38
AUD 16,305.00 16,370.00 16,878.00
SGD 18,633.00 18,708.00 19,262.00
THB 716.00 719.00 751.00
CAD 17,937.00 18,009.00 18,559.00
NZD 15,101.00 15,608.00
KRW 17.74 19.59
Cập nhật: 06/09/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24440 24440 24770
AUD 16373 16423 16933
CAD 18033 18083 18534
CHF 28949 28999 29566
CNY 0 3438 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27081 27131 27833
GBP 32153 32203 32870
HKD 0 3185 0
JPY 170.18 170.68 176.2
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.015 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 15116 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2400 0
SGD 18739 18789 19351
THB 0 694.3 0
TWD 0 772 0
XAU 7950000 7950000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 06/09/2024 21:00