Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Bao nhiêu ngân hàng là đủ?

07:28 | 21/09/2015

1,002 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo nhiều chuyên gia kinh tế, 30 ngân hàng thương mại hiện nay tại thị trường Việt Nam là quá nhiều, quy mô cũng chưa đủ lớn để vững chân trước những biến động của kinh tế thế giới. Nhưng cũng cần nhìn nhận rằng, số lượng không quan trọng bằng chất lượng hoạt động như thế nào!  

bao nhieu ngan hang la du

Xử lý nợ xấu - ngân hàng cần nhiều quyền hạn hơn

Giảm tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng xuống dưới 3% vào cuối tháng 9 này theo mục tiêu đề ra của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là hoàn toàn khả thi. 

 

 

Kể từ năm 1997, hệ thống ngân hàng trải qua khoảng hơn 10 năm “ổn định” về số lượng đến giai đoạn 2008 thì phình to cả về bề rộng và quy mô. Đi kèm với sự tăng trưởng là sự tăng nhanh của nợ xấu và các vấn đề an toàn hệ thống.

Và chắc chắn cần có một sự cải tổ mạnh mẽ đến từng ngân hàng và rộng hơn là cả hệ thống  tài chính nếu không muốn bị các đối thủ “xử” ngay trên sân nhà.

Hai vướng mắc của ngân hàng Việt Nam

Trong quá trình tái cơ cấu từ năm 2012 đến nay, liên tục có những băn khoăn về số lượng ngân hàng tại Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước vẫn kiên định mục tiêu của mình là khoảng 13 ngân hàng “tầm cỡ khu vực” là đủ cho nền kinh tế. Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, nếu tái cơ cấu mà quan tâm đến số lượng ngân hàng hiện diện thì cũng chưa hẳn là hợp lý. Chúng ta phải có cái nhìn toàn diện hơn từ góc độ nội tại của hệ thống ngân hàng: đó là quy mô nhỏ, chất lượng tài chính yếu, khả năng quản trị còn nhiều vấn đề. Đó là hậu quả từ khi chuyển những ngân hàng cổ phần nông thôn lên cổ phần đô thị, vốn điều lệ tăng rất nhanh, quy mô, thị trường và sản phẩm bị bó hẹp, quản trị yếu kém dẫn đến hàng loạt vấn đề đến nay vẫn chưa giải quyết được triệt để.

bao nhieu ngan hang la du

Theo nguyên Tổng giám đốc VietBank Cao Văn Đức, bản chất cốt lõi là phải giải quyết triệt để các vấn đề nội tại của cả hệ thống. Biện pháp phải đồng bộ, đa dạng như giải quyết nợ xấu một cách thực chất, yêu cầu tăng vốn điều lệ và cuối cùng là sáp nhập hoặc cho phá sản các ngân hàng yếu kém. Đến lúc rồi “số lượng ngân hàng bao nhiêu không quan trọng”, mà chính là hiệu quả và năng lực của các ngân hàng sau tái cơ cấu.

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cũng đồng tình rằng, việc giảm số lượng ngân hàng xuống 15 thay vì 30 như hiện nay chỉ là giải pháp đơn lẻ, không giải quyết được cốt lõi vấn đề. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay gặp 2 vướng mắc: Thứ nhất là quy mô về vốn, muốn vị thế ngang tầm trong khu vực thì vốn chủ sở hữu của một ngân hàng phải tối thiểu 4-5 tỉ USD. Thứ hai là nợ xấu: các ngân hàng giải quyết càng minh bạch, thực chất thì quá trình “lành mạnh hóa” hệ thống càng nhanh, giúp chúng ta đứng vững được trước làn sóng cạnh tranh của khối ngân hàng ngoại.

Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra việc tiếp cận hệ thống ngân hàng của người dân vẫn còn hạn chế. Số liệu 2014 cho thấy, tỷ lệ chi nhánh, phòng giao dịch trên 100.000 dân của ta chỉ khoảng 3.8, trong khi Philippines là 4, thấp hơn so với Thái Lan, Indonesia và tụt rất xa so với các nước phát triển - xấp xỉ 27.

Bài học nhiều năm của các nền kinh tế phát triển cũng cho thấy, số lượng các tổ chức tài chính, hoặc phòng giao dịch, điểm giao dịch ngân hàng tính trên số lượng đầu người nhất định thể hiện những góc nhìn rất quan trọng. Thứ nhất, tài chính giúp cải thiện tình trạng đói nghèo, vì hạn chế trong tiếp cận tín dụng ngăn cản việc người nghèo, người không có tài sản thế chấp tham gia vào chuỗi sản xuất; thứ hai, nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạn chế về vốn được tiếp cận với tài chính, xa hơn là các công nghệ mới nhằm phát triển kinh doanh.

Quy mô các ngân hàng tại Việt Nam cũng chưa thể so sánh trong khu vực. Ví như VietinBank sau một quá trình phát triển đầy ấn tượng đã đạt vốn điều lệ khoảng hơn 40.000 tỉ đồng tương đương trên dưới 2 tỉ USD. Tuy nhiên, các ngân hàng trong khu vực đã đi rất xa, như Maybank của Malaysai có vốn đều lệ khoảng hơn 5 tỉ USD, Bangkok Bank là trên 3 tỉ USD, thậm chí DBS Bank của Singapore đã đạt gần 10 tỉ USD.

Những con số này phù hợp với nhận định về hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay là số lượng ngân hàng quá lớn, trong khi quy mô của từng ngân hàng là nhỏ, nếu so sánh về quy mô trung bình của nhóm các ngân hàng lớn ở các quốc gia phát triển nhất trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Singapore và Indonesia.

Trông người mà nghĩ đến ta

Cũng có thể chỉ ra đây số lượng ngân hàng ở một số quốc gia cạnh chúng ta: Thái Lan chỉ có dưới 20 ngân hàng, Indonesia là 120 ngân hàng nhưng dân số tới khoảng 250 triệu người… Ngược lại, Đài Loan có đến 100 ngân hàng phục vụ cho số dân 20 triệu, ở Mỹ là… 6.000 ngân hàng.

Tại Mỹ, đa phần các ngân hàng đều có quy mô nhỏ đến… siêu nhỏ, hoạt động rất giới hạn trong địa bàn thành phố hoặc tiểu bang dẫn đến các nghiệp vụ ngân hàng cũng bị giới hạn. Tuy nhiên, với kinh nghiệm quản trị và các yêu cầu chặt chẽ từ luật pháp đã giúp hệ thống ngân hàng này được coi là lành mạnh, đáp ứng được đa phần nhu cầu của người dân ở quy mô nhỏ.

Singapore với 4 triệu dân và 100 ngân hàng lớn nhỏ khác nhau. Với tính chất là một trung tâm tài chính của khu vực, quốc gia này đã duy trì một hệ thống nhiều tầng lớp, quy mô ngân hàng khác nhau, vừa giúp tạo sự liên thông với quốc tế nhưng đồng thời đáp ứng được nhu cầu của người dân với chi phí hợp lý.

Ở Việt Nam, khi hệ thống ngân hàng “cấp nông thôn” vẫn còn tồn tại với quy mô nhỏ, hoạt động với địa bàn và nghiệp vụ bị giới hạn nhưng được điều hành tốt thì vẫn là mạch máu quan trọng cho nền kinh tế. Cùng với các ngân hàng lớn, quốc doanh có đầy đủ nghiệp vụ, chúng ta sẽ tạo ra được một mạng lưới rộng khắp đủ để phục vụ cho đa số người dân, doanh nghiệp.

Vậy thì số lượng ngân hàng là bao nhiêu sau quá trình tái cơ cấu sẽ chỉ là bề nổi, quan trọng nhất vẫn là tính minh bạch, hiệu quả của từng ngân hàng và cả hệ thống. Dĩ nhiên, việc giảm bớt số lượng cũng sẽ là một thành công, khi đã thanh lọc được cơ bản những ngân hàng yếu kém và đảm bảo an toàn hệ thống. Nhưng thành công lớn hơn phải là chất lượng thực chất của các ngân hàng được cải thiện: đó là chất lượng tài sản, chất lượng tín dụng, tính thanh khoản và mô hình quản trị, phòng ngừa rủi ro được tiệm cận với thế giới. Chính những điều này sẽ là các ngân hàng vừa có khả năng cung cấp dòng vốn khỏe cho nền kinh tế, vừa giúp cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.

 

Năng lượng Mới số 455

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,450 77,600
Nguyên liệu 999 - HN 77,350 77,500
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 12/09/2024 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.500 78.650
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 77.500 78.650
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 77.500 78.650
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 77.500 78.650
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.500 78.650
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.500
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.400 78.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.320 78.120
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.520 77.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.230 71.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.400 58.800
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.930 53.330
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.580 50.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.450 47.850
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.500 45.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.280 32.680
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.080 29.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.560 25.960
Cập nhật: 12/09/2024 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,650 7,825
Trang sức 99.9 7,640 7,815
NL 99.99 7,655
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,655
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,755 7,865
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,755 7,865
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,755 7,865
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 12/09/2024 10:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,300 ▼100K 78,600 ▼50K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,300 ▼100K 78,700 ▼50K
Nữ Trang 99.99% 77,200 ▼100K 78,200 ▼50K
Nữ Trang 99% 75,426 ▼49K 77,426 ▼49K
Nữ Trang 68% 50,831 ▼34K 53,331 ▼34K
Nữ Trang 41.7% 30,263 ▼21K 32,763 ▼21K
Cập nhật: 12/09/2024 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,981.62 16,143.05 16,661.81
CAD 17,638.67 17,816.84 18,389.38
CHF 28,126.19 28,410.29 29,323.26
CNY 3,380.90 3,415.05 3,525.32
DKK - 3,559.68 3,696.19
EUR 26,368.60 26,634.95 27,815.88
GBP 31,211.23 31,526.49 32,539.60
HKD 3,071.75 3,102.78 3,202.49
INR - 291.86 303.55
JPY 167.27 168.96 177.05
KRW 15.86 17.63 19.23
KWD - 80,206.08 83,416.98
MYR - 5,618.49 5,741.33
NOK - 2,216.11 2,310.32
RUB - 255.44 282.78
SAR - 6,531.73 6,793.22
SEK - 2,318.22 2,416.77
SGD 18,362.01 18,547.48 19,143.51
THB 642.78 714.20 741.59
USD 24,380.00 24,410.00 24,750.00
Cập nhật: 12/09/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,390.00 24,400.00 24,740.00
EUR 26,513.00 26,619.00 27,732.00
GBP 31,416.00 31,542.00 32,526.00
HKD 3,087.00 3,099.00 3,204.00
CHF 28,283.00 28,397.00 29,283.00
JPY 168.10 168.78 176.66
AUD 16,088.00 16,153.00 16,657.00
SGD 18,490.00 18,564.00 19,114.00
THB 708.00 711.00 743.00
CAD 17,750.00 17,821.00 18,365.00
NZD 14,814.00 15,318.00
KRW 17.55 19.37
Cập nhật: 12/09/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24400 24400 24750
AUD 16209 16259 16769
CAD 17904 17954 18405
CHF 28608 28658 29212
CNY 0 3418.7 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 26821 26871 27574
GBP 31793 31843 32513
HKD 0 3185 0
JPY 170.77 171.27 176.78
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.011 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 14871 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2395 0
SGD 18650 18700 19252
THB 0 688.6 0
TWD 0 772 0
XAU 7850000 7850000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 12/09/2024 10:00