Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Sản xuất vải vẫn là “điểm nghẽn” của ngành dệt may

17:10 | 19/01/2019

1,984 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Ông Trương Văn Cẩm – Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam cho biết: "Điểm nghẽn nhất của ngành dệt may Việt Nam là sản xuất được vải. Đây là lĩnh vực ngành đang rất yếu. Ngành cũng đã tìm mọi cách đưa ra giải pháp cho khâu vải nhưng mức độ thành công chưa được như mong muốn". 

Ngành dệt may đang có nhiều ưu thế

Tại Hội thảo “CPTPP với doanh nghiệp Việt: Lợi ích hay thách thức” vừa mới tổ chức sáng nay, bà Bùi Kim Thuỳ, nguyên thành viên Đoàn đàm phán, đại diện USABC tại Việt Nam đánh giá, ngành được hưởng lợi nhiều nhất từ những cam kết được ký kết từ Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đó chính là ngành dệt may. “Nói từ góc độ kỹ thuật, CPTPP là Hiệp định duy nhất Việt Nam tham gia có chương dệt may đứng riêng mà không chung với bất cứ chương nào khác, chưa bao giờ ngành này được ưu ái như vậy. Đặc biệt, trong tổng số các chương, ngành dệt may từ chương 50 đến 63 là các nhóm hàng phổ biến nhất và được đứng riêng, không bị ghép chung với các chương khác” – Bà Thùy nhấn mạnh.

san xuat vai van la diem nghen cua nganh det may
Các diễn giả tham gia thảo luận tại Hội thảo "CPTPP với doanh nghiệp Việt: Lợi ích hay thách thức?"

Theo ông Trương Văn Cẩm, trong gần 30 năm nay, dệt may Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Năm 1990 mới xuất khẩu 52 triệu USD. Đến năm 2002 khi ký hiệp định song phương với Mỹ, đã xuất khẩu khoảng 2,75 tỷ USD, đến 2013 đã tăng lên 21 tỷ USD, và 2018 là 36,1 tỷ USD. Một số năm gần đây, sự phát triển về kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn so với nhập khẩu. Năm 2008 xuất siêu trên 14 tỷ USD.

Nhưng ngành nhập khẩu nhiều, hiện đang nhập khoảng 3 tỷ USD bông, vải trên 12 tỷ USD, nguyên phụ liệu trên 3,6 tỷ USD và chủ yếu nhập từ Trung Quốc, tiếp đến là Hàn Quốc. Từ năm 2015-2017, nhập khẩu nguyên vật liệu bông vải sợi từ thị trường Trung Quốc của doanh nghiệp Việt Nam đã phần nào giảm đi. Tuy vậy, Việt Nam vẫn phải nhập gần 99% bông, 1,3 triệu tấn sơ xợi, 80% vải...

Về may, Việt Nam có thế mạnh nhưng chủ yếu vẫn là hình thức gia công. Về trình độ lao động, 76% lao động trong ngành dệt may là lao động phổ thông.

Bên cạnh những khó khăn, dệt may có những lợi thế nhất định như lực lượng lao động dồi dào, vẫn trong giai đoạn dân số vàng dù hiện tượng già hóa dân số đang xảy ra rất nhanh.

Ngành dệt may thu hút 17,5 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, nhất là khi các hiệp định thương mại tư do đưa vào đàm phán và chuẩn bị kết thúc, làn sóng đầu tư vào Việt Nam tăng mạnh. Trong giai đoạn 2013-2018, nguồn vốn đầu từ vào ngành dệt may chiếm 9,2 tỷ USD. Đây sẽ là lợi thế giúp các doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh.

Đánh giá về những cơ hội của ngành dệt may, ông Cẩm nhấn mạnh: "Cơ hội cho ngành dệt may trong CPTPP là mở rộng thị trường sang Mexico, Peru và Canada. Ngoài ra, những tác động khác nhau thúc đẩy cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch hơn... cũng có ảnh hưởng tích cực lên ngành dệt may".

Doanh nghiệp dệt may phải làm gì để tận dụng lợi thế?

Trong đó, quy định xuất xứ từ sợi của CPTTP đã đánh đúng vào điểm nghẽn của ngành. Với lợi thế ưu đãi thuế quan của CPTTP, các đối thủ cạnh tranh sẽ hỗ trợ công nghiệp dệt may của họ. Một số nước xuất khẩu dệt may mới nổi như Campuchia, Myanmar, Lào cũng được hưởng thuế 0% từ EU. Nhiều nước sẽ sử dụng cơ chế phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất nội địa.

san xuat vai van la diem nghen cua nganh det may
Dệt may được nhận định hưởng lợi lớn từ những cam kết của Hiệp định CPTPP

Theo ông Cẩm, cần làm gì để tận dụng lợi thế của CPTTP, đầu tiên, các doanh nghiệp dệt may phải hiểu về CPTTP, nắm kỹ thông tin về ngành dệt may, từ đó, biết chúng ta là ai, có thế mạnh gì và thị trường trong CPTTP có đặc điểm gì để đánh đúng thị trường.

Muốn giải quyết được điểm nghẽn, các doanh nghiệp mạnh phải liên kết với nhau, cần xây dựng chuỗi liên kết doanh nghiệp, nhất là trong nước và đầu tư nước ngoài. Liên quan đến vấn đề lao động, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh vấn đề đào tạo. Hiệp hội Dệt may cũng liên kết với nhiều nước mở lớp đào tạo.

Bên cạnh đó, cần có sự chung tay của nhà nước, địa phương. Nhà nước cần có chính sách phát triển trong 10-15 năm tới để tận dụng hiệp định này. Hiện, một số địa phương quay lại với dệt may, đặc biệt là dệt nhuộm nhưng nhiều dự án của các nhà đầu tư danh tiếng, có đầy đủ yêu cầu thì lại không được cấp phép. Vì vậy, Chính phủ cần quy hoạch các khu công nghiệp, xử lý nước thải để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp.

Mặt khác, ông Cẩm cho biết hiệp hội đã đề xuất lên Chính phủ việc xây dựng những cụm công nghệ tập trung có công nghệ xử lý nước thải. Giải pháp thứ hai là đào tạo nguồn nhân lực, nhà nước hỗ trợ thiết bị dạy học, học phí và học bổng để thu hút học sinh sinh viên vào ngành dệt may.

Nói về thách thức, cơ hội với ngành dệt may, ông Nguyễn Sơn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bông sợi Việt Nam cho biết, cuối năm ngoái, Viện Chiến lược Phát triển đã tiến hành đánh giá hàng trăm doanh nghiệp, đồng thời tham gia thảo luận để tìm ra những khó khăn đang gặp phải.

Vấn đề lớn nhất của ngành dệt may là sản xuất vải mà mấu chốt là vấn đề in, nhuộm... Tại các nước phát triển như Hàn Quốc, Trung Quốc, doanh nghiệp lớn đều xây dựng chuỗi cung ứng, khu công nghiệp với hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn. Khi tập trung về một khu vực, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng xử lý, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chỉ tập trung vào một khâu còn khâu sản xuất vải sẽ được lấy từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các khu vực khác… Việt Nam cần nghiên cứu, ứng dụng mô hình này.

Trước đây, ông cho rằng một phần chính sách phát triển có vấn đề, những mảng cần ưu đãi nhiều lại không có. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tiếp cận được các doanh nghiệp sản xuất vải lớn trong nước, dẫn đến phải nhập khẩu đến 12,8 tỷ USD vải...

Ông kiến nghị, Chính phủ cần có chính sách để doanh nghiệp tiếp cận đất đai dễ dàng hơn. Nhiều nơi có thể phát triển mô hình này nhưng hiện các tỉnh mới nhận thức có mức độ, 80-90% nói không với dệt nhuộm bởi lo ngại vấn đề ô nhiễm môi trường.

Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hưởng lợi, câu hỏi đặt ra là làm sao để thu hút doanh nghiệp, trong đó, giải pháp tốt nhất là xây dựng các khu công nghiệp tập trung. Hiện, vấn đề thu hút nguồn nhân lực vẫn còn hạn chế bởi các trường đại học ít đào tạo ngành này, các ngành cũng chưa có chính sách để thu hút sinh viên. Ông nêu ví dụ về một nhà máy dệt ở khu công nghiệp Bảo Minh (Nam Định) mới khánh thành có công suất lên đến 3 triệu mét một năm. Do không có nguồn nhân lực, công ty này phải thuê nhân lực từ nước ngoài nhưng vẫn không đạt yêu cầu. Vì vậy, Việt Nam nên hợp tác với các nước có thế mạnh để hỗ trợ nhau đào tạo nhân lực. Thuế VAT cũng là vấn đề nhức nhối của nhiều doanh nghiệp. Theo ông Sơn, các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam được miễn thuế nhưng các công ty trong nước cung ứng cho nhau lại mất thuế VAT. Vấn đề này cần được nghiên cứu và làm rõ.

san xuat vai van la diem nghen cua nganh det mayDệt may Việt Nam nay đã khác
san xuat vai van la diem nghen cua nganh det mayCPTPP : Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam
san xuat vai van la diem nghen cua nganh det mayNgành công nghiệp dệt may Việt Nam vào top 5 thế giới

Thanh Nhiên

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,700 85,700
AVPL/SJC HCM 82,700 85,700
AVPL/SJC ĐN 82,700 85,700
Nguyên liệu 9999 - HN 84,200 84,500
Nguyên liệu 999 - HN 84,100 84,400
AVPL/SJC Cần Thơ 82,700 85,700
Cập nhật: 21/11/2024 01:01
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 84.000 85.200
TPHCM - SJC 82.700 85.700
Hà Nội - PNJ 84.000 85.200
Hà Nội - SJC 82.700 85.700
Đà Nẵng - PNJ 84.000 85.200
Đà Nẵng - SJC 82.700 85.700
Miền Tây - PNJ 84.000 85.200
Miền Tây - SJC 82.700 85.700
Giá vàng nữ trang - PNJ 84.000 85.200
Giá vàng nữ trang - SJC 82.700 85.700
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 84.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.700 85.700
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 84.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 83.900 84.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 83.820 84.620
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 82.950 83.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 77.190 77.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 62.280 63.680
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 56.350 57.750
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 53.810 55.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 50.420 51.820
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 48.300 49.700
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.990 35.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.510 31.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.700 28.100
Cập nhật: 21/11/2024 01:01
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,320 8,530
Trang sức 99.9 8,310 8,520
NL 99.99 8,360
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,310
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,410 8,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,410 8,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,410 8,540
Miếng SJC Thái Bình 8,300 8,570
Miếng SJC Nghệ An 8,300 8,570
Miếng SJC Hà Nội 8,300 8,570
Cập nhật: 21/11/2024 01:01

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,180.38 16,343.82 16,868.15
CAD 17,739.39 17,918.58 18,493.43
CHF 28,054.86 28,338.25 29,247.37
CNY 3,419.22 3,453.75 3,564.55
DKK - 3,544.55 3,680.28
EUR 26,241.47 26,506.53 27,680.33
GBP 31,400.68 31,717.86 32,735.41
HKD 3,180.05 3,212.17 3,315.22
INR - 300.06 312.05
JPY 158.24 159.84 167.44
KRW 15.78 17.54 19.03
KWD - 82,516.62 85,815.53
MYR - 5,626.82 5,749.54
NOK - 2,269.24 2,365.59
RUB - 240.30 266.01
SAR - 6,745.96 6,993.92
SEK - 2,280.95 2,377.80
SGD 18,517.13 18,704.17 19,304.23
THB 650.25 722.50 750.17
USD 25,170.00 25,200.00 25,499.00
Cập nhật: 21/11/2024 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,200.00 25,201.00 25,499.00
EUR 26,359.00 26,465.00 27,543.00
GBP 31,573.00 31,700.00 32,636.00
HKD 3,194.00 3,207.00 3,308.00
CHF 28,190.00 28,303.00 29,142.00
JPY 160.01 160.65 167.45
AUD 16,265.00 16,330.00 16,811.00
SGD 18,629.00 18,704.00 19,210.00
THB 716.00 719.00 749.00
CAD 17,844.00 17,916.00 18,415.00
NZD 14,750.00 15,231.00
KRW 17.47 19.18
Cập nhật: 21/11/2024 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25341 25341 25499
AUD 16201 16301 16866
CAD 17831 17931 18486
CHF 28294 28324 29127
CNY 0 3472.9 0
CZK 0 1011 0
DKK 0 3579 0
EUR 26376 26476 27351
GBP 31697 31747 32850
HKD 0 3266 0
JPY 160.18 160.68 167.21
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.11 0
MYR 0 5869 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14757 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2307 0
SGD 18548 18678 19406
THB 0 676.3 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8570000
XBJ 8000000 8000000 8570000
Cập nhật: 21/11/2024 01:01