Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Sản lượng khai thác dầu tại Nga sẽ giảm 10% trong năm nay?

11:17 | 30/06/2022

2,111 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trang tin Vedomosti mới đây đã có bài viết phân tích liên quan đến báo cáo nghiên cứu “Thị trường dầu khí Nga trong điều kiện mới” của công ty Kept (tiền thân là công ty KPMG Nga). Theo dự báo của nhóm tác giả, sản lượng khai thác dầu trung bình hàng ngày tại Nga sẽ giảm từ 9,7 triệu bpd (năm 2021) xuống còn 8,8 triệu bpd trong năm nay.
Sản lượng khai thác dầu tại Nga sẽ giảm 10% trong năm nay?

Con số ước tính này thấp hơn gần 15% so với các dự báo của KPMG trước khi Mỹ/phương Tây áp đặt lệnh các trừng phạt mới đối với Nga. Chuyên gia Maksim Malkov của Kept cho biết, sự sụt giảm mạnh sản lượng khai thác dầu dự kiến sẽ xảy ra vào nửa cuối năm 2022, có tính đến tác động từ các biện pháp cấm vận của EU đối với hoạt động nhập khẩu dầu Nga.

Theo Kept, trong nửa đầu năm 2022, khoảng 18% sản lượng dầu xuất khẩu của Nga bị các nước nhập khẩu cấm vận. Rủi ro lớn nhất hiện nay đối với sản xuất dầu tại Nga liên quan đến việc giảm nguồn cung sang EU, thị trường mà Nga đã xuất khẩu 108,1 triệu tấn dầu (chiếm 47% tổng sản lượng xuất khẩu) trong năm 2021. Công ty Kept dự báo rằng, xuất khẩu dầu của Nga trong năm 2022 sẽ chỉ giảm 2%, từ 231 triệu tấn (2021) xuống còn 228,3 triệu tấn. Nghiên cứu của Kept cũng cho thấy, các lô dầu đến châu Á trong nửa đầu năm 2022 đã vượt qua lượng hàng đến châu Âu.

Tuy nhiên, tình hình hiện tại sẽ dẫn đến sự sụt giảm hoạt động lọc dầu ở Nga và các thị trường cung cấp dịch vụ và hàng hóa liên quan như dịch vụ dầu khí. Chuyên gia Malkov giải thích rằng, sự sụt giảm dự kiến trong lĩnh vực lọc dầu là do hạn chế xuất khẩu các sản phẩm dầu mỏ. Còn thị trường nội địa dự kiến sẽ không xảy ra tình trạng thiếu nhiên liệu. Theo đánh giá của Kept, các công ty dầu khí của Nga cần phải kịp thời sửa đổi kế hoạch của mình. Trong số những thách thức, ngoài việc giảm sản lượng và định hướng lại xuất khẩu, các thách thức khác là nhu cầu lớn về dịch vụ và thiết bị dầu khí công nghệ cao và dầu thô Nga phải bán với giá kèm chiết khấu lớn ở thị trường nước ngoài. Việc các nhà cung cấp công nghệ nước ngoài rời khỏi Nga có thể làm trầm trọng thêm tình hình sản xuất, dẫn đến giảm sản lượng khoan.

Theo ước tính của Kept, sự sụt giảm sản lượng hiện tại đang được bù đắp bởi giá dầu tăng. Giá dầu Brent đã tăng hơn 50%, từ 75 USD/thùng lên 110 USD/thùng kể từ đầu năm 2022. Nỗ lực tăng sản lượng trong tình hình hiện tại có thể mang lại tín hiệu tích cực cho thị trường và giúp giảm giá dầu. Sau khi Nga bắt đầu chiến dịch quân sự tại Ukraine, người mua toàn cầu đã bắt đầu giảm mua dầu Nga. Tháng 3/2022, Mỹ và Anh đã công bố lệnh cấm vận dầu mỏ Nga. Đến tháng 6, EU đã đưa lệnh cấm nhập khẩu dầu thô Nga bằng đường biển vào gói trừng phạt thứ 6 chống Nga.

Các nhà giao dịch dầu mỏ quốc tế cũng đã bắt đầu từ chối mua dầu của Nga. Mức chiết khấu của dầu Urals đối với dầu Brent đã lên tới 20-40 USD/thùng. Theo Bộ Tài chính Nga, giá dầu Urals trung bình trong tháng 5 là 78,81 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent đã được giao dịch ở mức 101 - 123 USD/thùng. Đến ngày 23/06, giá dầu Brent giao kỳ hạn tháng 8 đã tăng trên mức 112 USD/thùng.

Vào cuối tháng 5 vừa qua, Phó Thủ tướng Nga A.Novak cho biết, sản lượng dầu thô của Nga trong năm 2022 có thể giảm từ 524 triệu tấn (2021) xuống còn 480 - 500 triệu tấn, tức là giảm từ 5-8%. Theo ông Novak, Chính phủ Nga kỳ vọng sản lượng khai thác sẽ dần phục hồi sau khi giảm khoảng 1 triệu bpd trong tháng 4 vừa qua. Ngày 16/6, Bộ trưởng Năng lượng Nga Nikolai Shulginov cho biết, sản lượng dầu khai thác của Nga (bao gồm cả condensate) trong năm 2022 có thể sẽ duy trì ở mức của năm ngoái hoặc giảm từ 3-5%.

Theo nguồn tin của Vedomosti, sản lượng khai thác dầu của Nga trong tháng 5/2022, có tính đến condensate, đã tăng 5% so với tháng trước đó, lên 43,1 triệu tấn. Tính trong 5 tháng đầu năm 2022, sản lượng dầu tại Nga đã tăng 3,5%, lên 219,9 triệu tấn. Sản lượng lọc dầu giảm 4%, xuống 112 triệu tấn và xuất khẩu tăng gần 13%, lên 102,7 triệu tấn.

Các nhà phân tích tại Ngân hàng Alfa-Bank nhận định, sản lượng dầu và condensate tại Nga có thể giảm khoảng 5,5% trong năm nay. Đánh giá về báo cáo của Kept, nhiều chuyên gia tài chính của Nga cho rằng, để sản lượng giảm 10% trong cả năm 2022, sản xuất dầu mỏ của Nga sẽ phải “lao dốc” rất mạnh trong nửa cuối năm. Điều này là khó xảy ra do lệnh cấm vận của EU sẽ chỉ có hiệu lực vào cuối năm nay. Trong trường hợp xấu nhất, sản xuất dầu tại Nga sẽ giảm đáng kể vào năm 2023.

Các chuyên gia tại công ty chứng khoán BCS World of Investments tại Nga nhận định, sản xuất dầu tại Nga sẽ giảm trong quý 4 sắp tới trước khi lệnh cấm vận của EU có hiệu lực. Khi đó, sản lượng có thể giảm từ 1,5-2 triệu bpd. Nhưng tính trung bình cả năm, con số sụt giảm có thể thấp hơn ước tính của Kept. BCS World of Investments cũng dự báo, tốc độ suy giảm sản lượng trung bình hàng năm tại Nga sẽ không vượt quá 4-5% trong năm 2023-2024.

Phía Alfa Bank đồng tình với luận điểm của Kept rằng, khả năng cắt giảm sản lượng do sản lượng lọc dầu giảm. Sự sụt giảm sản lượng lọc dầu trong tháng 5, chủ yếu là do xuất khẩu các sản phẩm dầu mỏ giảm và điều này buộc các nhà máy lọc dầu lớn phải chuyển hướng sang thị trường nội địa. Theo Alfa-Bank, xuất khẩu các sản phẩm dầu mỏ của Nga trong năm nay có thể giảm 20% và mức tăng xuất khẩu dầu thô của Nga sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương có thể đạt 1 triệu bpd.

Tiến Thắng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 78,050 ▲50K 78,150
Nguyên liệu 999 - HN 77,950 ▲50K 78,050
AVPL/SJC Cần Thơ 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
Cập nhật: 19/09/2024 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 78.000 79.100 ▼100K
TPHCM - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Hà Nội - PNJ 78.000 79.100 ▼100K
Hà Nội - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Đà Nẵng - PNJ 78.000 79.100 ▼100K
Đà Nẵng - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Miền Tây - PNJ 78.000 79.100 ▼100K
Miền Tây - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 78.000 79.100 ▼100K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 78.000
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 78.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.900 78.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.820 78.620
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 77.010 78.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.690 72.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.780 59.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 52.270 53.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.910 51.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.760 48.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.790 46.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.490 32.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.260 29.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.720 26.120
Cập nhật: 19/09/2024 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,695 7,880
Trang sức 99.9 7,685 7,870
NL 99.99 7,700
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,800 7,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,800 7,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,800 7,920
Miếng SJC Thái Bình 7,980 ▼20K 8,180 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 7,980 ▼20K 8,180 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 7,980 ▼20K 8,180 ▼20K
Cập nhật: 19/09/2024 11:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
SJC 5c 79,800 ▼200K 81,820 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,800 ▼200K 81,830 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,800 ▼100K 79,100 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,800 ▼100K 79,200 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 77,700 ▼100K 78,700 ▼100K
Nữ Trang 99% 75,921 ▼99K 77,921 ▼99K
Nữ Trang 68% 51,171 ▼68K 53,671 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 30,471 ▼42K 32,971 ▼42K
Cập nhật: 19/09/2024 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,302.79 16,467.47 16,996.56
CAD 17,659.71 17,838.09 18,411.23
CHF 28,330.90 28,617.07 29,536.53
CNY 3,405.78 3,440.18 3,533.22
DKK - 3,603.50 3,741.66
EUR 26,680.35 26,949.85 28,144.60
GBP 31,711.75 32,032.07 33,061.25
HKD 3,083.10 3,114.25 3,214.31
INR - 293.82 305.58
JPY 166.28 167.96 175.96
KRW 15.99 17.77 19.28
KWD - 80,652.08 83,880.39
MYR - 5,722.74 5,847.83
NOK - 2,280.71 2,377.66
RUB - 254.74 282.01
SAR - 6,552.48 6,814.76
SEK - 2,366.05 2,466.62
SGD 18,538.34 18,725.60 19,327.24
THB 653.19 725.77 753.59
USD 24,460.00 24,490.00 24,830.00
Cập nhật: 19/09/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,420.00 24,440.00 24,780.00
EUR 26,734.00 26,841.00 27,958.00
GBP 31,799.00 31,927.00 32,917.00
HKD 3,093.00 3,105.00 3,210.00
CHF 28,397.00 28,511.00 29,402.00
JPY 167.16 167.83 175.47
AUD 16,288.00 16,353.00 16,860.00
SGD 18,596.00 18,671.00 19,224.00
THB 715.00 718.00 750.00
CAD 17,711.00 17,782.00 18,323.00
NZD 14,973.00 15,479.00
KRW 17.69 19.53
Cập nhật: 19/09/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24490 24490 24830
AUD 16352 16402 17004
CAD 17779 17829 18381
CHF 28639 28739 29342
CNY 0 3435.5 0
CZK 0 1044 0
DKK 0 3663 0
EUR 26973 27023 27825
GBP 32121 32171 32923
HKD 0 3155 0
JPY 168.48 168.98 175.49
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2317 0
NZD 0 15064 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2405 0
SGD 18670 18720 19381
THB 0 696.4 0
TWD 0 768 0
XAU 7980000 7980000 8180000
XBJ 7400000 7400000 7800000
Cập nhật: 19/09/2024 11:00