Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Giảm lãi suất thêm 1%: “Liều thuốc” chưa đủ để cứu doanh nghiệp

06:40 | 01/01/2013

708 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) – Để đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp cho nhu cầu sản xuất cuối năm, không ít ngân hàng đã chủ động hạ lãi suất cho vay thêm 1%, xuống còn 10 – 11%/năm. Tuy nhiên, việc giảm lãi suất vào thời điểm này không giúp được nhiều cho doanh nghiệp khi sức mua trên thị trường giảm, lượng hàng tồn kho cao.

Theo chuyên gia kinh tế, hiện nay, sản xuất đang trong tình trạng bí đầu ra do chi phí sản xuất cao, việc bán hàng bị giới hạn bởi sức mua đang suy yếu, dẫn đến hàng tồn kho cao. Do đó, giảm lãi suất thêm 1% không có nhiều ý nghĩa cho doanh nghiệp trong thời điểm này. Vấn đề doanh nghiệp quan tâm hàng đầu hiện nay là hàng tồn kho, chỉ khi nào hàng tồn kho được giải phóng thì việc giảm lãi suất mới có ý nghĩa thực sự.

Ông Nguyễn Hoàng Minh - Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP HCM cho biết: Nắm rõ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng cao nhằm phục vụ cho sản xuất cuối năm, nhiều ngân hàng đã chủ động cho vay với nhiều chương trình ưu đãi lãi suất. Không ít ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay xuống mức 10 - 11%. Việc giảm lãi suất này hoàn toàn trong tầm tay của ngân hàng khi lãi suất tiền gởi đã giảm.

Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất hiện nay của doanh nghiệp không phải là lãi suất cao hay thấp mà chính là làm cách nào để giảm hàng tồn kho. Thời gian qua, qua nhiều đợt giảm lãi suất cho vay, doanh nghiệp vẫn không mặn mà vay vốn đầu tư cho sản xuất và kinh doanh do hàng tồn kho vẫn còn quá cao.

Kể từ tháng 3 đến nay, lãi suất huy động đã qua 4 lần được điều chỉnh với mức giảm tổng cộng 5% nhưng tính đến cuối năm 2012, tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn TP HCM ước tính chỉ tăng 5,4%, thấp hơn so với mức tăng 7,7% của năm 2011. Điều này chứng tỏ, mặc dù lãi suất thấp song doanh nghiệp vẫn không mặn mà.

Lãi suất giảm nhưng doanh nghiệp vẫn rất thận trọng vay vốn sản xuất vì sợ gia tăng hàng tồn kho

Ông Nguyễn Đại Lai - Chuyên gia Tài chính Ngân hàng nhận định: Mặc dù, đã đến Tết Dương lịch và Tết Âm lịch gần kề song thị trường tiêu dùng vẫn hết sức ảm đạm. Các cửa hàng thời trang đề bảng giảm giá khá rầm rộ nhưng vẫn vắng khách. Người đến mua sắm thì ít mà chủ yếu đến xem là nhiều. Có lẽ chưa năm nào mà các cửa hàng kinh doanh lại phải đối diện với thị trường ế ẩm như hiện nay. Không chỉ ngành may mặc, thời trang tồn kho mà mặt hàng bánh kẹo, thực phẩm cũng đang phải rò xét thị trường, khi sức mua giảm, hàng tồn kho gia tăng doanh nghiệp cũng không dám mạo hiểm sản xuất nhiều hàng hóa vì sợ gia tăng hàng tồn kho, do đó sẽ không có nhiều doanh nghiệp vay vốn để sản xuất vào thời điểm này mặc dù lãi suất giảm.

Từ nay đến Tết Nguyên đán chỉ còn hơn một tháng nữa, do đó, thời gian để doanh nghiệp đẩy mạnh bán hàng còn rất ít. Thị trường tiêu dùng cuối năm không mấy khả quan. Do đó, rất khó kỳ vọng việc hạ lãi suất có ý nghĩa lớn trong việc kích cầu tiêu dùng trong giai đoạn này.

Ông Trần Quốc Mạnh - Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP HCM cho rằng: lãi suất giảm thêm 1% cũng góp phần giúp doanh nghiệp vượt khó và có thể có kế hoạch tốt hơn cho năm 2013. Thực tế, giảm lãi suất vẫn tốt hơn là không giảm. Trong thời buổi quá khó khăn hiện nay thì việc hạ lãi suất trở thành “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Tuy nhiên, nếu đã có ý định “cứu” doanh nghiệp, thiết nghĩ nên sớm đưa lãi suất cho vay về mức khoảng 8%/năm. Đây là mức lãi suất lý tưởng, doanh nghiệp có thể chịu đựng được. Lãi suất cho vay hiện nay trung bình 12 – 15% vẫn là quá cao.

Tuy nhiên, điều các doanh nghiệp quan tâm hiện nay là hiệu quả của các giải pháp hỗ trợ đến đâu vì các giải pháp hỗ trợ tốt của Chính phủ ít khi được vận dụng tốt vào thực tiễn. Trong năm 2012, nhiều chủ trương đã được đề ra, đang triển khai nhưng kết quả không đạt như mong đợi của các nhà hoạch định chính sách. Nói giảm lãi suất nhưng chắc chắn không có nhiều doanh nghiệp vay được. Do đó, các doanh nghiệp cho rằng, điều quan trọng hiện nay là phải kích thích tiêu dùng và giảm hàng tồn kho, chỉ khi nào sức mua thị trường tăng, hàng tồn kho giảm thì việc giảm lãi suất mới có ý nghĩa với doanh nghiệp.

Mai Phương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 82,000
AVPL/SJC HCM 80,000 82,000
AVPL/SJC ĐN 80,000 82,000
Nguyên liệu 9999 - HN 78,000 78,150
Nguyên liệu 999 - HN 77,900 78,050
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 82,000
Cập nhật: 19/09/2024 08:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 78.000 79.200
TPHCM - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Hà Nội - PNJ 78.000 79.200
Hà Nội - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Đà Nẵng - PNJ 78.000 79.200
Đà Nẵng - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Miền Tây - PNJ 78.000 79.200
Miền Tây - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 78.000 79.200
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 78.000
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 78.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.900 78.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.820 78.620
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 77.010 78.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.690 72.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.780 59.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 52.270 53.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.910 51.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.760 48.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.790 46.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.490 32.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.260 29.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.720 26.120
Cập nhật: 19/09/2024 08:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,695 7,880
Trang sức 99.9 7,685 7,870
NL 99.99 7,700
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,800 7,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,800 7,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,800 7,920
Miếng SJC Thái Bình 8,000 8,200
Miếng SJC Nghệ An 8,000 8,200
Miếng SJC Hà Nội 8,000 8,200
Cập nhật: 19/09/2024 08:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
SJC 5c 79,800 ▼200K 81,820 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,800 ▼200K 81,830 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,900 79,200
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,900 79,300
Nữ Trang 99.99% 77,800 78,800
Nữ Trang 99% 76,020 78,020
Nữ Trang 68% 51,239 53,739
Nữ Trang 41.7% 30,513 33,013
Cập nhật: 19/09/2024 08:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,196.55 16,360.15 16,885.83
CAD 17,612.33 17,790.23 18,361.86
CHF 28,259.76 28,545.21 29,462.42
CNY 3,406.58 3,440.99 3,552.09
DKK - 3,596.22 3,734.11
EUR 26,626.27 26,895.22 28,087.60
GBP 31,622.75 31,942.17 32,968.52
HKD 3,079.51 3,110.61 3,210.56
INR - 293.50 305.25
JPY 166.64 168.32 176.38
KRW 16.01 17.78 19.40
KWD - 80,553.88 83,778.42
MYR - 5,722.48 5,847.58
NOK - 2,274.63 2,371.32
RUB - 254.43 281.67
SAR - 6,544.51 6,806.48
SEK - 2,359.58 2,459.88
SGD 18,488.67 18,675.43 19,275.50
THB 650.06 722.28 749.98
USD 24,430.00 24,460.00 24,800.00
Cập nhật: 19/09/2024 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,480.00 24,500.00 24,840.00
EUR 26,904.00 27,012.00 28,133.00
GBP 31,856.00 31,984.00 32,974.00
HKD 3,102.00 3,114.00 3,218.00
CHF 28,622.00 28,737.00 29,637.00
JPY 169.95 170.63 178.47
AUD 16,365.00 16,431.00 16,940.00
SGD 18,710.00 18,785.00 19,343.00
THB 720.00 723.00 756.00
CAD 17,812.00 17,884.00 18,428.00
NZD 15,049.00 15,556.00
KRW 17.79 19.65
Cập nhật: 19/09/2024 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24460 24460 24800
AUD 16308 16358 16960
CAD 17750 17800 18351
CHF 28609 28709 29312
CNY 0 3440.5 0
CZK 0 1044 0
DKK 0 3663 0
EUR 26931 26981 27783
GBP 32075 32125 32878
HKD 0 3155 0
JPY 168.57 169.07 175.58
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2317 0
NZD 0 15034 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2405 0
SGD 18649 18699 19352
THB 0 695 0
TWD 0 768 0
XAU 7980000 7980000 8180000
XBJ 7400000 7400000 7800000
Cập nhật: 19/09/2024 08:45