Điện gió ngoài khơi: Tiềm năng lớn phát triển nền kinh tế xanh
Cần nhanh chóng xây dựng chiến lược về điện gió ngoài khơi |
[Infographic] Điện gió ngoài khơi – tài nguyên năng lượng tái tạo vô tận |
Châu Âu chú trọng điện gió ngoài khơi |
Hiệu quả kinh tế từ… sóng và gió
Phóng viên (PV): Không chỉ được đánh giá là nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo vô tận mà điện gió ngoài khơi (ĐGNK) còn được xem là bài toán mang lại hiệu quả kinh tế biển rất cao. Là một chuyên gia, ông có thể phân tích kỹ hiệu quả này như thế nào?
TS Đinh Văn Nguyên: Dựa trên các nghiên cứu, tính toán của chúng tôi ở MaREI Centre, chúng tôi đã xây dựng công cụ tính toán kinh tế dựa vào nhiều yếu tố quan trọng trong đó có chuỗi cung ứng thực địa; điều kiện gió, sóng, địa hình và địa chất đáy biển. Và cũng dựa vào kết quả mà chúng tôi đã thực hiện các dự án tư vấn cho các trang trại điện gió ngoài khơi đã và sắp khởi công ở EU, chúng tôi thấy ĐGNK có thể mang lại hiệu quả kinh tế rất cao. Trong đó có những điểm như gió ngoài khơi có vận tốc cao hơn, ổn định hơn và có hệ số công suất (CF) cao hơn. Theo kết quả nghiên cứu mà tôi hợp tác với các nhà nghiên cứu ở Việt Nam và Nhật Bản đã công bố thì CF ở vùng biển gần đảo Bạch Long Vĩ đến 40% (với tiềm năng kỹ thuật 38 GW) và vùng gần đảo Phú Quý gần 55% (tiềm năng kỹ thuật cũng 38GW).
TS Đinh Văn Nguyên trình bày về công nghệ turbine điện gió ngoài khơi tại một hội thảo quốc tế |
Tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi toàn quốc lên đến 475 GW (theo báo cáo của WB-ESMAP) và cũng gần với kết quả nghiên cứu chúng tôi trước đó là trên 600 GW. Đặc điểm gió ổn định này rất có lợi cho nhà đầu tư ở chỗ tăng tuổi thọ hệ thống cơ khí, kết cấu.v.v. Điểm thứ hai là gió ngoài khơi mạnh vào ban ngày và vẫn khá tốt vào ban đêm nên phù hợp với đặc tính phụ tải. Kết hợp với ưu điểm gió ổn định như tôi đã nói trên và ưu điểm này sẽ làm giảm chi phí lưu trữ và giảm sa thải công suất. Đồng thời làm giảm đi thách thức cho truyền tải và lưới điện, làm giảm đi khó khăn của năng lượng tái tạo là dự phòng - thường phải dùng điện khí hoặc một phần thủy điện. Một điểm nữa tôi cũng muốn nói đến là vận chuyển, lắp dựng các turbine lớn cho công trình ĐGNK dễ dàng bằng tàu hoặc sà lan trong khi vận chuyển trên đất liền là bất khả thi. Như turbine lớn 9MW có cánh dài 80m, 12MW có cánh dài 107m, nếu vận chuyển trên đất liền gần như là bất khả thi, nhưng sẽ dễ dàng trên biển. Mà các turbine lớn hiệu quả nhìn chung sẽ làm chi phí năng lượng (LCOE) giảm.
ĐGNK cũng mang lại hiệu quả kinh tế biển ở chỗ có nhiều cơ hội sử dụng nhân lực, công nghệ và thiết bị xây dựng dầu khí, góp phần làm chuyển giao hay bổ sung chiến lược và lao động hiện có của ngành dầu khí và các ngành vận tải biển và cảng, thăm dò và khảo sát biển... Hiệu quả kinh tế của ĐGNK còn cao hơn nữa khi có nhiều trang trại gió ngoài khơi cùng được xây dựng - gọi là pipeline (trong đó, mỗi trang trại không nên nhỏ hơn 400 MW) để có thể huy động tối ưu dây chuyền nhân lực, tàu bè và máy móc khi thi công cũng như trong vận hành và bảo dưỡng (20-25 năm). Thời gian thu hồi vốn của ĐGNK sẽ tùy thuộc vào các yếu tố trên và kế hoạch tài chính của dự án. Tuy nhiên, nếu mọi yếu tố được thỏa mãn và tối ưu thì thời gian thu hồi vốn có thể dưới 10 năm.
Với tình hình hiện tại ở nước ta, thì chúng ta có thể tham khảo mức cao hơn trung bình của giá trúng thầu vòng 1 và vòng 2 của điện gió ngoài khơi ở Vương quốc Anh trong khoảng 80-90 bảng Anh/MWh rồi tính toán cụ thể và phân tích kỹ với thực tế. Tuy nhiên, với nhà đầu tư có kinh nghiệm và tiềm lực thì độ ổn định và dài hạn của cơ chế, chính sách cũng rất quan trọng.
Điện gió ngoài khơi có tiềm năng lớn phát triển nền kinh tế xanh |
PV: Với hiệu quả kinh tế như vậy, theo ông vì sao Việt Nam mới chỉ có duy nhất 1 dự án ĐGNK được phê duyệt là dự án ĐGNK Thanglong Wind - khu vực ngoài khơi mũi Kê Gà, tỉnh Bình Thuận và 1 trang trại gió Bạc Liêu đã đi vào hoạt động?
TS Đinh Văn Nguyên: Như tôi đã trình bày, việc phát triển một dự án điện gió ngoài khơi liên quan đến khá nhiều việc, nhiều đầu mối, và liên quan đến một số quy hoạch và sự hình thành và phát triển của chuỗi cung ứng nội địa. Hơn nữa, công nghệ kỹ thuật điện gió ngoài khơi (nhất là xa bờ - trên 20 km) mới phát triển mạnh và giá thành mới giảm nhanh trong mấy năm gần đây. Trong khuôn khổ thời gian, chúng ta có thể coi các dự án ở Bạc Liêu và Bình Thuận là tiên phong.
Thua lỗ nếu phụ thuộc vào nhà thầu
PV: Chủ đầu tư của một dự án điện gió đã nói rằng, với mức giá điện gió trên đất liền là 8,5 UScent/kWh, chủ đầu tư chỉ có thể có lãi với điều kiện dự án có tiềm năng gió tốt, có nguồn vốn vay hợp lý và lựa chọn được thiết bị phù hợp. Thế còn ĐGNK theo ông liệu có rơi vào tình trạng ấy không?
TS Đinh Văn Nguyên: Như tôi đã trình bày, phát triển điện gió ngoài khơi cần được hình thành dựa trên chuỗi cung ứng đủ lớn, có yêu cầu kỹ thuật cao đặc biệt về nhân lực, thiết bị, tàu, máy móc và công nghệ thi công, và cần nhà đầu tư, nhà thầu có kinh nghiệm, tiềm lực tài chính. Nên kể cả ở vùng tiềm năng gió tốt nhưng dự án nhỏ dựa hoàn toàn vào việc thuê các nhà thầu quốc tế thì có thể xảy ra việc có lãi thấp thậm chí lỗ nếu chủ đầu tư thiếu kinh nghiệm và năng lực. Một ví dụ đơn giản, là chi phí cho vận hành, bảo dưỡng và dịch vụ (OMS) chiếm đến 35-50% giá thành toàn vòng đời của trang trại (tùy vị trí và điều kiện). Nếu chủ đầu tư thiếu kinh nghiệm, mua turbine rẻ (thường là turbine của các nhà sản xuất Trung Quốc) thì chất lượng vận hành kém, thường xuyên phải bảo dưỡng bất thường. Trong khi đó hoạt động OMS trên biển lại rất tốn kém, turbine lại dừng hoạt động nhiều nên doanh thu sẽ thấp. Mặt khác nhà cung cấp lại giữ công nghệ, máy móc và nhân lực làm OMS. Tất cả những vấn đề đó đều có nguy cơ dẫn đến chi phí OMS tăng lên nhiều lần và làm giảm lợi nhuận.
Trang trại điện gió ngoài khơi có thể là điểm tham quan du lịch |
PV: Là một chuyên gia trong ngành điện gió, theo ông làm thế nào để thúc đẩy phát triển ngành ĐGNK hơn nữa so với hiện nay?
TS Đinh Văn Nguyên: Tôi rất vui mừng được biết quyết tâm của Đảng và Nhà nước thông qua Quyết định số 203/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ vừa rồi về việc thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Ngày 11/2, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong đó đã nhắc trực tiếp đến phát triển ĐGNK. Với công nghệ ĐGNK trên thế giới đã đến giai đoạn có lợi ích kinh tế cao; với lợi thế nước ta có tiềm năng gió cao và các ngành dầu khí, vận tải và cảng biển phát triển và đặc biệt có sự quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, có thể xem thời gian này là cơ hội vàng để phát triển công nghiệp ĐGNK ở Việt Nam.
Để thúc đẩy phát triển ĐGNK, theo tôi cần thực hiện một số việc: Xây dựng quy hoạch tích hợp không gian biển (Marine Spatial Planning - MSP), và cần một cơ quan nhà nước đứng ra điều phối với sự tham gia của nhiều bộ ngành liên quan. Cùng với đó, nghiên cứu, quy hoạch và xây dựng hệ thống truyền tải điện và lưu trữ năng lượng từ ngoài khơi vào bờ. Xây dựng cơ chế chính sách đơn giản, rõ ràng và dài hạn để có thể thu hút được các nhà đầu tư, các nhà cung cấp thiết bị và các nhà thầu quốc tế có kinh nghiệm và tiềm lực thực sự, cũng như chọn lọc sớm các đối tượng chưa đủ khả năng.
Đặc biệt, nhà nước cần có chiến lược và lộ trình giảm chi phí sản xuất điện từ trang trại điện gió ngoài khơi bằng cách nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong chuỗi cung ứng, đặc biệt là các thành phần có tỷ lệ giá thành cao hoặc giá trị gia tăng cao như hệ thống turbine, cánh quạt, nhà thầu lắp dựng (nhân lực, tàu, thiết bị) nhất là tổng thầu, nhà thầu OMS. Xây dựng nguồn nhân lực trong nước và tăng năng lực của chuỗi cung ứng nội địa thông qua các hội thảo khoa học và kỹ thuật, các chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và cơ sở đào tạo. Để có thể phát triển các nguồn năng lượng mới và phát triển bền vững thực sự, nước ta cần có tiềm lực kinh tế nên phải đẩy mạnh và tạo cơ chế và chính sách sử dụng năng lượng hiệu quả, các giải pháp tiết kiệm năng lượng một cách toàn diện ở các ngành và các đối tượng. Hạn chế các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng dù tự sản xuất ra điện...
Hiện nay, tôi đang phối hợp với Tổ chức Sáng kiến Chuyển dịch Năng lượng (VIET S.E.) để thực hiện một số báo cáo nghiên cứu, trong đó đáng chú ý là nghiên cứu chuyên sâu về chiến lược, lựa chọn vùng và hệ thống lưới điện phục vụ cho phát triển điện gió ngoài khơi của nước ta. Dự kiến các báo cáo này sẽ được xuất bản trong tháng tư này nhằm hỗ trợ hiện thực hóa các quyết định của Chính phủ trong phát triển ĐGNK Việt Nam.
PV: Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!
Tú Anh
- Thí điểm phát triển điện gió ngoài khơi để tạo cơ sở xây dựng chính sách phù hợp
- Chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng: 3 nhóm nhiệm vụ cần thực hiện xong trước cuối năm 2025
- Bài 5: TS Nguyễn Anh Tuấn: Luật hóa chính sách là nền tảng cho sự phát triển NLTT vững chắc và lâu dài
- Bài 4: Phát triển Năng lượng tái tạo: Cần pháp lý minh bạch, ổn định
- Bài 3: Cần nhanh chóng hoàn thiện khung chính sách pháp luật về phát triển năng lượng tái tạo