Lời tự thú từ phi công B52 Mỹ
(PetroTimes) - Hôm ấy là ngày 22 tháng 12, máy bay tôi đi đầu tốp 3 trong số 4 tốp của hướng chúng tôi, xuất phát từ Utapao (Thái Lan) lúc 1h30 phút sáng.
Ảnh tư liệu của Mỹ |
Bị bắn rơi, các phi công B-52 Mỹ cay đắng tự thú
Đại úy hoa tiêu B-52 Robert G.Certain khai rành rọt sau khi bị bắt sống: “Chúng tôi xuất phát từ đảo Guam. Khi chúng tôi đang giải trí ở câu lạc bộ sỹ quan, một số đã chuẩn bị đi ngủ thì lệnh trên gọi đi ngay. Lệnh cấp tốc hoạt động nhiều tốp cùng một lúc, chưa bao giờ huy động lớn đến thế ai cũng bất ngờ, bất ngờ hơn nữa là nghe phổ biến nhiệm vụ đánh vào vùng Hà Nội. Chúng tôi lo ngại nhìn nhau có đứa bảo thế là hết Noel. Mấy viên đại tá cơ quan tham mưu bảo chúng tôi, không có gì phải lo cả, đi ném bom đêm, bay cao cứ bám đuôi nhau cho chặt, chiếc nọ thẳng hàng chiếc kia, bám đuôi nhau trở về sẽ trở về đủ không có gì đang lo. Robert còn được các chỉ huy đảm bảo đi đánh đêm MIG và trận địa tên lửa không nhìn thấy được, rồi thay vì được ngủ một giấc tại Guam là đi thẳng Hillton Hỏa Lò ngủ dài ngày lẫn đêm.
Còn trung tá lái chính B-52 Henry Lan thì không thể quên những ngày trước khi vào Hỏa Lò “nghỉ ngơi”: “Mọi người lên xe jeep đi tới một dãy nhà 1 tầng xám. Ở đó người ta họp phổ biến nhiệm vụ cho các phi công trước khi đi ném bom, không khí lặng lẽ và chìm đắm những ai chưa đến lượt thì đi nằm tại buồng riêng thở dài nghĩ đến gia đình. Những người sắp lên máy bay thì lặng lẽ nhìn nhau không nói chuyện nhiều như trước. Trong cuộc họp người ta còn nói tới cả những hoạt động đi cứu của phi vụ hôm trước, nhưng không nói rõ thiệt hại ra sao. Việc giấu diếm úp mở càng làm khủng hoảng thêm tâm lý đối với những người sắp ra đi như tôi lúc bấy giờ, tất cả là máu xám một phòng họp màu xám, dưới bầu trời máu xám. Hôm ấy là ngày 22 tháng 12, máy bay tôi đi đầu tốp 3 trong số 4 tốp của hướng chúng tôi, xuất phát từ Utapao (Thái Lan) lúc 1h30 phút sáng. Máy bay của tôi chở bom 700 và 500 cân Anh, lúc bấy giờ chúng tôi đang ở độ cao 10km, tốc độ khoảng 900km/h khoảng 4 phút trước khi tới mục tiêu là Hà Nội, thì chúng tôi được báo động có hiện tượng nghi ngờ là máy bay MIG đang săn đuổi. Ngoài ra, với mắt thường chúng tôi có thể thấy rất nhiều tên lửa Sam bay vút lên phía chúng tôi, máy bay của tôi liên tiếp 2 tên lửa Sam tấn công. Sau khi bị hỏng bởi quả Sam thứ nhất, chúng tôi không liên lạc được gì với nhau, tôi đang cố gắng giữ cho máy bay bay thẳng thì bị tiếp quả Sam thứ 2, máy bay bị hỏng nặng, cửa kính chắn gió ở buồng lái vỡ tung, hệ thống điện trong máy bay hoàn toàn mất hiệu lực, hai động cơ máy bay bị cháy, cánh trái cháy, điện đài liên lạc để cứu cũng không liên lạc được. Tôi là phi công lái chính, và là người chỉ huy phi hành đoàn. Tôi rất muốn liên lạc với mọi người trong nhóm, nhưng cả người lái phụ tôi cũng chẳng biết số phận anh ta ra sao. Ghế dù bật tôi ra khỏi máy bay, chiếc máy bay khổng lồ 8 động cơ mà tôi lái đang cháy sáng rực như một quả cầu lửa lớn. Xung quanh tôi tên lửa, đạn pháo nổ réo vun vút, thật là kinh khủng khi dù sắp hạ tôi xuống đất thì đã có rất nhiều người chờ sẵn để bắt tôi.
Trong một kíp bay khác, trung úy hoa tiêu William Thomas Mayall thì than phiền với những người bắt mình: “Theo quy định của giáo trình dạy người lái B-52, nếu gặp bất trắc phải xử lý nhảy dù thì người lái chính phải ra lệnh cho toàn kíp. Sau đó thứ tự nhảy dù quy định như sau: thứ nhất người giữ súng được nhảy đầu tiên, thứ hai và thứ ba là hai hoa tiêu vì không cần đến họ nữa, thứ tư là sĩ quan điện tử, thứ năm là phụ lái và cuối cùng là lái chính. Vì hai người này phải giữa cho máy bay thăng bằng, phải cầm lái đến giây cuối cùng đảm bảo an toàn cho kíp bay lần lượt nhảy dù hết. Tài liệu nhắc rõ là người lái chính phải nhảy dù cuối cùng, khi trong máy bay không còn ai. Thế nhưng trong máy bay của tôi, hai thằng lái lại nhảy trước tiên, chúng nó cầm lái, chúng nó nhận ra nguy hiểm đầu tiên và chẳng ra lệnh cái gì cả, tự chúng nó nhảy thoát thân mặc chúng tôi. Cũng may, tuy bịt kín tai bằng máy nghe, nhưng tôi thấy máy bay rung mạnh, người nhìn lên thì chẳng thấy thằng nào còn ngồi ở ghế cả. Tôi liền vội bấm nút nhảy dù, tôi ngồi tầng dưới, hệ thống nhảy dù của tôi không phải bật lên mà là tụt xuống dưới, từ bụng máy bay bật thẳng xuống rơi tõm theo hướng thẳng đứng khá mạnh, chậm một tí nữa máy bay ngửa bụng là tôi chết cháy.
Kết quả chiến dịch phòng không Điện Biên Phủ trên không nhìn từ 2 phía
Theo các chuyên gia quân sự Liên Xô, trong chiến dịch 12 ngày đêm đánh trả cuộc tập kích đường không của máy bay ném bom chiến lược Mỹ, lực lượng tên lửa phòng không đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ bầu trời Hà Nội và Hải Phòng, liên tục trong 12 ngày đêm các đơn vị tên lửa thường xuyên tiến hành từ 10 đến 12 lần phóng đạn hoặc nhiều hơn, tiêu diệt 31 chiếc B-52 trên bầu trời Hà Nội. Không quân Việt Nam trong 12 ngày đêm chỉ xuất kích 31 lần tiến hành 8 trận không chiến, bắn rơi 7 máy bay (chiếm 9% tổng số may bay bị bắn hạ) trong đó có 2 chiếc B-52. Các trận không chiến với F4 mang tính chất thường xuyên sử dụng biên đội 2 MIG, không chiến với B52 thực hiện chế độ săn đêm, hoàn toàn mang tính thử nghiệm.
Lực lượng pháo phòng không các cỡ nòng vẫn duy trì hiệu quả chiến đấu cao, trong 12 ngày đêm bắn hạ 20 máy bay (chiếm 25% tổng số máy bay bị hạ) có 5 chiếc F-111. Tổng kết chung, trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không lực lượng phòng không không quân đã bắn hạ tổng số 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B-52 và 5 chiếc F-111.
Nhận định của các chuyên gia Mỹ
Chiến dịch Linebacker II đạt được mục tiêu chính trị đề ra là đưa Hà Nội trở lại bàn đàm phán Paris. Trong chiến dịch đã chứng minh được tính hiệu quả hoạt động tác chiến liên kết phối hợp các lực lượng liên quân, đóng vai trò then chốt là lực lượng máy bay ném bom chiến lược B-52 và máy bay chiến thuật không quân, không quân hải quân.
Trong chiến dịch Linebacker II, B-52 đã thực hiện 729 lần xuất kích (theo kế hoạch 741 lần), ném xuống Hà Nội và Hải Phòng khoảng 15.000 tấn bom. Cũng theo các chuyên gia Mỹ, Việt Nam đã sử dụng 1.240 quả tên lửa, Mỹ chỉ mất 15 máy bay B-52 nhỏ hơn là 2% số lượng theo biên chế. Trong số 92 phi công ném bom chiến lược bị bắn rơi, 25 phi công được cứu hộ, 26 phi công được trao trả tù binh năm 1973, số còn lại hoặc tử trận hoặc mất tích. Cũng theo các chuyên gia và tướng lĩnh Mỹ, nếu chiến dịch Linebacker II tiếp tục kéo dài, Mỹ có thể giành chiến thắng và chính quyền Sài Gòn sẽ không sụp đổ.
Người Mỹ nói về thất bại
Năm năm sau trận thua trên bầu trời Hà Nội, Đại úy phi công B-52 của Mỹ là Drenkowski đã viết bài đăng trên tạp chí US Airforce phân tích về nguyên nhân thua cuộc của người Mỹ. Viên phi công này nêu lên nhiều vấn đề nhưng theo anh ta có 3 nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thất bại: là quá trình oanh tạc nhỏ giọt từng đợt, thiếu yếu tố bất ngờ và thiếu sự linh hoạt trong chiến thuật.
Drenkowski cho rằng trong chiến dịch Linebacker II, không quân Mỹ đã tiến hành đánh phá các mục tiêu thành các đợt cách nhau đến hàng giờ liền. Điều đó giúp cho hệ thống phòng thủ của đối phương có thời gian hồi phục để đối phó với đợt sau. Khi đã sửa chữa sai lầm bằng cách dùng 5 đợt B-52 đồng thời từ nhiều hướng vào ném bom thì số thiệt hại máy bay mới giảm (ở điểm này có lẽ Drenkowski đã nhầm lẫn hoặc cố ý nói như vậy để tăng sức thuyết phục cho luận điểm của mình).
Bởi vì sau khi ngừng 36h với lý do nghỉ Giáng Sinh, thực tế là điều chỉnh chiến thuật thì đêm 26 tháng 12, không quân Mỹ đã tập trung 105 B-52 đánh cả Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên từ nhiều hướng nhưng lại mất 6 B-52 và 4 chiếc rơi tại chỗ, rõ ràng thiệt hại không hề giảm khi tăng tần suất ném bim như Drenkowski nói.
Về yếu tố bất ngờ , Drenkowski nói các tốp B-52 không giữ được các yếu tố này khi mà mọi chiếc B-52 đều phải bay vào và bay ra theo đường bay của chiếc đầu tiên ở cùng 1 độ cao và tốc độ. Viên phi công viết: “mỗi đêm khi chiếc B-52 đầu tiên bay qua thì các trắc thủ đối thủ đối phương có thể biết chính xác chiếc B-52 tiếp theo sẽ bay tới vị trí nào. Lẽ ra phải nghĩ đến các đợt oanh tạc ở tầm thấp để gây yêu tố bất ngờ, ít nhất cũng phải cho máy bay B-52 bay ở nhiều độ cao và tốc độ khác nhau”.
Kết hợp với yếu tố này là yếu tố linh hoạt trong chiến thuật, Drenkowski phân tích tiếp: “chiến thuật không thay đổi kịp với những thay đổi của tình hình. Ví dụ, nếu một chiếc F-105 báo tin, toàn bộ tên lửa Sam-2 của một khu vực đã bị tiêu diệt tạo lên một lỗ hổng trong chu vi phòng thủ của Sam, các máy bay B-52 vẫn không được phép thay đổi đường bay để lợi dụng lỗ hổng này, mà cứ phải bay vào mục tiêu theo đường bay đã định sẵn. Đêm đầu tiên khi dải nhiễu đã bị gió thổi đi, các phi công vẫn không được phép điều chỉnh đường bay vào mục tiêu, trong khoảng từ 24 đến 32km để lợi dụng dải nhiễu này.
Đúng như viên phi công Mỹ nói, Việt Nam không bị bất ngờ về cuộc tập kích của B-52 từ góc độ chiến lược tới chiến thuật. Ta đã dự đoán và chuẩn bị từ lâu cho trận đánh này, về thời điểm chính xác mà Mỹ sẽ khai hỏa chiến dịch, ta cũng nắm bắt được qua tình báo và các nhiệm vụ kỹ thuật. Bởi thế ngay trong đêm đầu tiên ta đã bắn rơi ngày 3 chiếc B-52.
Tuy nhiên, về yếu tố linh hoạt chiến thuật thì luận điểm của Drenkowski đưa ra cũng chưa thuyết phục lắm. Bởi vì ngay chính các nhà khoa học và chiến thuật gia của không quân Mỹ cũng thấy rằng, tập trung hàng trăm máy bay B-52 đánh phá một vùng trời chật hẹp ở Hà Nội. Nếu các máy bay B-52 cơ động thì rất dễ va chạm vào nhau gây tai nạn, ngay chính khi bay trong đội hình ở độ cao và tốc độ ổn định mà B-52 còn phải bật rất nhiều đèn để tránh va quyệt nên khả năng cơ động trên không để tránh đòn và tận dụng lỗ hổng là không khả thi.
Trong một cuốn sách xuất bản sau bài báo của Drenkowski 2 năm, cuốn The Vietnam War của John T. Greenwood lại làm phong phú thêm các nguyên nhân thất bại của không quân Mỹ. Tác giả nhấn mạnh đến yếu tố gió như một thuận lợi cho Việt Nam.
Đêm đó tức 18 tháng 12, cũng như hai đêm sau gió từ hướng Tây Bắc thổi mạnh với tốc độ lên tới trên 100 dặm/h, đã đẩy các máy bay B-52 bay nhanh còn thung lũng sông Hồng nhưng cũng thổi bạt sợi nhiễu ra khỏi các hành lang, trước khi các pháo đài bay kịp tới.
Cùng với đó, Greenwood cũng nhấn mạnh rằng: “Hơn nữa, khi ra khỏi mục tiêu, các máy bay B-52 phải ngoặt trở lại bay ngược chiều gió mạnh 100dặm/h nên tốc độ rút lui chậm lại quá nhiều vào hướng gây nhiễu bị chệch, khiến cho radar của các trận địa tên lửa đất đối không lân cận có thể lọt qua những chỗ yếu trong màn nhiễu.
Ngày 30 tháng 12 năm 1972, Nixon rốt cục cũng đã phải xuống thang tuyên bố chấm dứt ném bom hoàn toàn miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Paris vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, có hiệu lực từ 7h ngày 28 tháng 1. Kênh Singer đã phải thừa nhận với các đại biểu Việt Nam tại Paris, các ngài không những là anh hùng mà còn thông minh, 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không đã là đòn giáng mạnh và tư tưởng sùng bài công nghệ và máy móc. Coi học thuyết ném bom chiến lược như một giải pháp cho mọi cuộc sung đột và bom là thứ thuốc trị bách bệnh của Mỹ.
Đối với Việt Nam chiến thắng Điện Biên Phủ trên không là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Trong đó, riêng về mặt quân sự ta đã chiến thắng, vì căn bản đầu tiên là ta không bị bất ngờ mà ngược lại còn khiến cho kẻ địch bị bất ngờ vì những cố gắng và nổ lực của ta.
T.D tổng hợp
Mỹ triển khai máy bay ném bom B-52H đến Trung Đông |
Quật ngã thần tượng B52 trên bầu trời Hà Nội |
Kinh ngạc một đêm bắn rơi 7 máy bay B-52 của Mỹ |