Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 25)
(PetroTimes) - Cùng với các đường ống của Tapline và IPC ở phía bắc, kênh đào Suez là tuyến đường then chốt trong cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp dầu lửa thế giới sau chiến tranh và cũng là tuyến đường thủy có tầm quan trọng lớn nhất đối với các cường quốc phương Tây đang ngày càng phụ thuộc vào dầu Trung Đông.
CHƯƠNG 24: CUỘC KHỦNG HOẢNG SUEZ
Kênh đào Suez |
Kênh đào Suez, một con kênh hẹp dài 100 dặm xuyên qua sa mạc Ai Cập, nối Biển Đỏ và Địa Trung Hải, là một trong những thành tựu lớn nhất của thế kỷ XIX. Đây là công trình của Ferdinand de Lesseps, một người Pháp, được ngợi ca là "kỹ sư vĩ đại". Thực tế, Lesseps không phải là kỹ sư, mà rất thành công trong vị trí một nhà ngoại giao, một doanh nhân, một nhà bảo trợ. Tài năng của ông không chỉ dừng ở đó. Khi Lesseps 64 tuổi, ông đã cưới một phụ nữ chỉ mới 20 tuổi và có tổng cộng 12 đứa con.
Con kênh này đã được bàn đến từ rất lâu nhưng vẫn bị cho là không thể thực hiện cho đến khi De Lesseps thành lập một doanh nghiệp tư nhân có tên Công ty kênh Suez, được Ai Cập nhượng quyền xây dựng một con kênh. Công việc bắt đầu năm 1859 và con kênh đã hoàn thành một thập kỷ sau đó, năm 1869. Người Anh ngay lập tức nhận ra lợi ích của kênh đào Suez, đặc biệt vì con kênh này cho phép giảm đáng kể thời gian đi tới Ấn Độ, hòn ngọc của đế quốc Anh. Họ thấy tiếc vì đã không đầu tư và thu lợi từ "con đường cao tốc đi Ấn Độ của chúng ta", theo cách Hoàng tử xứ Walles gọi con kênh đào.
May thay, năm 1875, do Khedivi, người đứng đầu quốc gia này đang chìm ngập trong nợ nần, Ai Cập quyết định bán 44% cổ phần của kênh Suez. Nhờ sự hỗ trợ tài chính kịp thời và đúng lúc của chi nhánh ngân hàng Rothschild tại Anh, Thủ tướng Anh Benjamin Disraeli đã cho mua lại số cổ phần này. Công ty kênh Suez trở thành một công ty Anh-Pháp và Disraeli đã tóm tắt những nỗ lực của mình bằng một lời nhắn súc tích và bất hủ gửi tới nữ hoàng Victoria: "Người đã có nó, thưa Nữ hoàng". Mang lại những lợi ích tuyệt vời cho các du khách và thương nhân, kênh đào này đã rút thời gian đi Ấn Độ xuống một nửa.
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là ý nghĩa chiến lược của con kênh: nó là tuyến đường huyết mạch của đế quốc Anh, nối Anh với Ấn Độ và vùng Viễn Đông. Việc "giữ liên lạc với Ấn Độ" là yếu tố cơ bản trong chiến lược an ninh của Anh. Các lực lượng của Anh luôn đóng quân thường trực tại kênh đào Suez. Tầm quan trọng về mặt quân sự của kênh đào này càng thể hiện rõ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi quân Anh cố thủ tại El Alamein để bảo vệ con kênh khỏi cuộc tấn công của Rommel.
Tuy nhiên, năm 1948, kênh đào Suez bỗng mất đi tầm quan trọng truyền thống. Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập, và quyền kiểm soát kênh Suez không thể được duy trì bằng cơ sở lập luận là con kênh có vị trí phòng thủ chiến lược đối với Ấn Độ hay một đế quốc đang tan rã. Ngoài ra, khi đó, Suez đã lĩnh thêm một vai trò mới và trở thành một tuyến đường của dầu chứ không phải của đế quốc – tuyến đường chủ yếu để chuyên chở dầu của Vịnh Ba Tư tới châu Âu. Nhờ nó, quãng đường tới Southamton giảm xuống còn 6.500 dặm so với 11.000 dặm nếu đi qua mũi Hảo Vọng. Đến năm 1955, mật độ qua lại của tàu chở dầu chiếm tới 2/3 lưu lượng giao thông trên kênh đào này, và đó cũng là đường vận chuyển của 2/3 lượng dầu tới châu Âu. Cùng với các đường ống của Tapline và IPC ở phía bắc, kênh đào Suez là tuyến đường then chốt trong cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp dầu lửa thế giới sau chiến tranh và cũng là tuyến đường thủy có tầm quan trọng lớn nhất đối với các cường quốc phương Tây đang ngày càng phụ thuộc vào dầu Trung Đông.
Người theo chủ nghĩa dân tộc: Vai nào diễn viên đó
Anh nắm quyền kiểm soát Ai Cập và do đó đã kiểm soát kênh đào Suez trong 3/4 thế kỷ. Ban đầu là một cuộc xâm lược toàn diện, tiếp đó là cai trị về kinh tế và chính trị rồi chế độ bảo hộ. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc của Ai Cập vẫn trỗi dậy và không thể dập tắt được, đặc biệt trong những năm đầu sau chiến tranh. Năm 1952, một nhóm sĩ quan quân sự đảo chính thành công và trục xuất Farouk, vị vua ưa cuộc sống xa hoa, tới Riviera. Ở đó, mặc dù không được ai mủi lòng thương xót, ông vua bị trục xuất này lại rất nổi tiếng do có nhiều bạn gái và có một thân hình phì nộn quá mức.
Gamal Abdel Nasser |
Năm 1954, tướng Mohammed Naguib, người lãnh đạo cuộc đảo chính năm 1952, bị đại tá Gamal Abdel Nasser lật đổ và ngài Đại tá trở thành nhà độc tài được thừa nhận của Ai Cập. Là con trai của một nhân viên bưu điện đồng thời bẩm sinh đã đầy những mưu mô, Nasser bắt đầu hoạt động bài Anh đầu tiên từ một thập kỷ trước đó, trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai bằng những thủ đoạn ngấm ngầm. Một hồ sơ mật của CIA về Nasser kết luận: "Ông ta vui sướng như một đứa trẻ khi có những hành động đầy mưu mô". Thậm chí cả khi đã là nguyên thủ quốc gia, Nasser còn nói với khách khứa và các cộng sự rằng ông vẫn cảm thấy mình là một người đang lập mưu. Nasser cũng có khả năng nắm bắt và dẫn dắt tinh thần dân tộc chủ nghĩa của thế giới Arập.
Là một học trò ưu tú của Mohammed Mossadegh, ông sử dụng thành thạo thuật hùng biện và đài phát thanh để kích động và huy động quần chúng, kéo hàng trăm nghìn người biểu tình ra các đường phố trong tâm trạng quá khích. Ông trở thành hình mẫu của một sĩ quan quân đội, một nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa hăng hái giữa những quốc gia đang nổi lên của thế giới thứ ba. Nasser thật sự là một người theo chủ nghĩa dân tộc, cống hiến hết mình cho sự phục hồi và nền độc lập của Ai Cập. Tuy nhiên, ông cũng muốn vượt xa khỏi biên giới Ai Cập, từ đầu này tới đầu kia trong thế giới nói tiếng Arập, từ bờ tây của Bắc Phi tới bờ Vịnh Ba Tư.
"Tiếng nói Arập", là tên của đài phát thanh đầy quyền lực của Nasser, phát sóng trên toàn bộ vùng Trung Đông, truyền đi những bài phát biểu hùng hồn của ông kêu gọi bài trừ phương Tây và đe dọa các chế độ Arập khác trong khu vực. Chương trình của ông bao gồm chủ nghĩa liên Arập, trong đó có việc thành lập một thế giới Arập mới dưới sự lãnh đạo của Gamal Abdel Nasser, loại bỏ một Israel đang chen ngang và chia tách thế giới Ảrập, và sửa chữa lại sự kiện thành lập nhà nước Israel, mà ông gọi là "tội ác quốc tế lớn nhất" trong lịch sử.
Với những con tàu lướt đi dưới ánh mặt trời mà trên đó, các vị thuyền trưởng ngoại quốc, chủ yếu là người Anh hoặc Pháp, trong trang phục quần short, áo sơ mi trắng diêm dúa, đội mũ thuyền trưởng, đi những đôi tất trắng, kênh đào Suez là biểu tượng rõ nét nhất của của chủ nghĩa thực dân thế kỷ XIX và nó lại ở ngay giữa một vùng đất sẽ trở thành Ai Cập mới của Nasser. Tuy nhiên, những hình ảnh này không phải là điều duy nhất khiến mọi người phải để ý. Trước thời Mossadegh, Iran đã nhượng quyền khai thác dầu cho nước ngoài, nên phần lớn thu nhập của công ty sở hữu kênh Suez có được từ việc thu phí tàu chở dầu thuộc về các cổ đông châu Âu mà trong đó cổ đông lớn nhất là Chính phủ Anh. Nếu Ai Cập nắm được quyền kiểm soát hoàn toàn con kênh, phí tàu bè sẽ trở thành một nguồn thu nhập lớn cho quốc gia đang ở trong cảnh nghèo đói cùng cực này, một quốc gia mà các nhà lãnh đạo quân sự có nhiều kinh nghiệm trong việc hùng biện về chủ nghĩa dân tộc hơn là quản lý kinh tế.
Trong bất kỳ bối cảnh nào, quyền khai thác dầu ở Iran được tính từng ngày. Theo thỏa thuận, quyền khai thác sẽ hết hạn vào năm 1968. Lúc này, ảnh hưởng của Anh cũng đang suy yếu tại khu vực kênh đào Suez. Anh vẫn sẽ duy trì một căn cứ quân sự và một trung tâm tiếp tế lớn tại khu vực, theo các điều khoản của Hiệp ước Anh - Ai Cập ký kết năm 1936. Tuy nhiên, vì không thể đợi người Anh rút đi hết, Ai Cập đã tiến hành một chiến dịch quấy rối bao gồm tấn công khủng bố, giết người và bắt cóc. Duy trì một căn cứ để bảo vệ Trung Đông trong khi lại bị chính nước chủ chốt tại khu vực mà mình đang bảo vệ tấn công thì còn lợi ích gì?
Năm 1954, Ngoại trưởng Anh Anthony Eden đã chỉ đạo một cuộc đàm phán về việc rút những binh lính Anh cuối cùng đóng tại vùng kênh đào Suez trong vòng hai mươi tháng. Năm sau, chỉ hai tháng trước khi kế nhiệm Churchill làm thủ tướng, Eden đã tới Cairo và khiến Nasser phải giật mình khi ông nói chuyện bằng tiếng Arập và sử dụng thành thạo nhiều câu tục ngữ. Chính phủ Anh vẫn hy vọng có thể duy trì ảnh hưởng tại Ai Cập trên cơ sở những điều khoản hợp lý. Tuy nhiên, hy vọng này dần tan biến vì Nasser muốn hợp nhất một quốc gia riêng rẽ là Sudan vào Đại Ai Cập của ông. Washington độ lượng nhìn Nasser, vì Chính phủ Mỹ và nhiều nghị sĩ Quốc hội muốn tỏ ra vượt trội hơn các cường quốc thực dân châu Âu về mặt đạo đức, và đồng thời muốn chứng kiến các đế chế này nhanh chóng mất đi quyền lực.
Người Mỹ tin rằng tàn tích của chủ nghĩa thực dân là một bất lợi cho phương Tây trong cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản và Liên bang Xô Viết. Mặc dù kênh đào này có tầm quan trọng lớn cả về kinh tế và chiến lược, Công ty kênh đào Suez là một trong những tàn tích rõ ràng nhất của chủ nghĩa thực dân. Sau này, viên chủ tịch công ty đã cay đắng nhận định rằng, đối với người Mỹ, "công ty này có một thứ mùi mốc nhất định, thứ mùi hôi của thế kỷ XIX bốc ra từ thời kỳ thực dân buồn thảm đó". Tuy nhiên, mùa thu năm 1955, hồi chuông cảnh báo về Nasser đã dóng lên không chỉ ở London mà còn cả ở Washington. Nasser đã ngả về phía Liên Xô để có được vũ khí. Điều này có đồng nghĩa với sự mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô? Liệu kênh đào Suez có đóng cửa với các tàu chở dầu và tàu hải quân của phương Tây?
Anthony Eden |
Ngay tháng 2 năm 1956, Bộ Ngoại giao Mỹ thảo luận với các công ty dầu lửa về việc sửa đổi Thỏa thuận tự nguyện năm 1950, vốn được áp dụng để giải quyết việc mất nguồn cung dầu lửa từ Iran. Theo đó, thỏa thuận sửa đổi sẽ cho phép các công ty hợp tác với nhau và với chính phủ trong trường hợp kênh đào Suez đóng cửa với tàu chở dầu vì bất kỳ lý do nào. Tuy nhiên, đối với các công ty này, đề xuất cùng hành động của chính quyền Mỹ xem ra không hiệu quả vì nguy cơ bị kiện chống độc quyền. Nguy cơ này không thể được coi là vu vơ, bởi Bộ Tư pháp vẫn đang theo đuổi một vụ kiện chống độc quyền nhằm vào các công ty dầu lửa lớn. Bản thân các công ty cũng lo ngại về khả năng gián đoạn nguồn cung.
Tháng 4 năm 1956, Standard Oil New Jersey tự tiến hành nghiên cứu tìm biện pháp tối ưu để đưa dầu từ Vịnh Ba Tư về phía tây trong trường hợp kênh Suez bị đóng cửa. Cũng vào thời gian này, Ngoại trưởng Anh Selwyn Lloyd có chuyến viếng thăm Ai Cập. Lloyd nhấn mạnh kênh đào này là "một phần không thể thiếu trong ngành công nghiệp dầu lửa của Trung Đông, lĩnh vực có ý nghĩa sống còn đối với Anh". Nasser viện dẫn rằng các quốc gia sản xuất dầu lửa nhận được 50% khoản lợi nhuận có được từ dầu của họ còn Ai Cập thì lại không nhận được 50% khoản lợi nhuận có được từ con kênh và tuyên bố, nếu kênh Suez là một phần không thể thiếu được của ngành công nghiệp dầu lửa, Ai Cập lẽ ra phải được chia phần 50-50 như các nước sản xuất dầu. Tuy nhiên, thỏa thuận đang được áp dụng đã không được sửa đổi.
Cuối năm 1955, trong một nỗ lực nhằm xoa dịu Nasser và thúc đẩy nền kinh tế Ai Cập, Anh và Mỹ đã phối hợp với Ngân hàng thế giới tiến hành xem xét việc cấp một khoản vay cho Ai Cập để nước này xây dựng một con đập lớn tại Aswan trên sông Nile. Dự án này có vẻ tiến triển tốt và Nasser tỏ ra hài lòng hơn khi những binh lính Anh cuối cùng tại khu vực kênh đào rút đi ngày 13 tháng 6 năm 1956, theo thỏa thuận mà Eden đã đàm phán hai năm trước đó. Tuy nhiên, những thỏa thuận mua bán vũ khí của Nasser với Liên Xô khiến cho Mỹ có thái độ xa lánh Ai Cập. Người ta cho rằng Ai Cập sẽ cầm cố những nguồn lực có hạn của mình để mua vũ khí của Liên Xô thay vì đóng góp cho việc xây dựng con đập. Ngoài ra, những khó khăn về kinh tế được dự báo là sẽ xuất hiện từ dự án này sẽ dẫn tới sự chống đối và chỉ trích nhằm vào các nước cấp vốn vay. Tốt hơn hết là để Liên Xô bị mắc kẹt với khoản chi phí dài hạn này. Trong bất kỳ trường hợp nào, Chính phủ Mỹ cũng sẽ phải đối mặt với sự chống đối.
Các thượng nghị sĩ Mỹ tại các bang miền Nam có thái độ thù địch với dự án xây dựng con đập vì họ lo ngại rằng dự án sẽ giúp Ai Cập có được những mùa bông bội thu hơn, cạnh tranh với bông xuất khẩu của Mỹ trên thị trường thế giới. Các nghị sĩ thân thiện với Israel cũng không muốn cung cấp viện trợ nước ngoài cho một chính phủ luôn thù địch với Israel. Thêm vào đó, việc Nasser công nhận "Trung Quốc đỏ" cũng là một hồi chuông cảnh báo đối với cả chính quyền và các nghị sĩ Mỹ. Tuy nhiên, phát súng nhân đạo được bắn khi phe Cộng hòa ở Thượng viện nói với Dulles rằng viện trợ nước ngoài chỉ có thể được thông qua cho một trong hai nhà lãnh đạo "trung tính" là Tito của Nam Tư hoặc Nasser của Ai Cập, chứ không thể cả hai. Quyết định này được Eisenhower khẳng định. Anh đồng tình và Dulles chọn Tito. Ngày 19 tháng 7 năm 1956, Dulles hủy bỏ đề xuất khoản vay cho dự án xây dựng đập Aswan, khiến cả Nasser và Ngân hàng thế giới ngạc nhiên.
Mật lệnh "De Lesseps": Động thái của Nasser
Nasser nổi giận vì cảm thấy bị xúc phạm và rất muốn thực hiện hành động trả đũa. Ông nghĩ, nếu chiếm lấy kênh Suez, tiền phí tàu bè qua lại có thể được sử dụng để xây dựng đập Aswan và biểu tượng đáng ghét của chủ nghĩa thực dân cũng bị loại trừ. Ngày 26 tháng 7, ông đọc một bài diễn văn tại quảng trường Alexandria và lặp đi lặp lại những lời lẽ vu khống dành cho De Lesseps, người đã xây dựng kênh đào Suez. Đây không đơn thuần là một bài học lịch sử. "De Lesseps" là một mật lệnh cho quân đội Ai Cập di chuyển; đến lúc Nasser đọc xong bài diễn văn, quân đội đã giành quyền kiểm soát khu vực kênh đào. Con kênh Suez đã bị sung công. Đây là một hành động táo bạo và gây chấn động. Căng thẳng nhanh chóng gia tăng ngay sau khi Ai Cập giành quyền kiểm soát kênh Suez. Tại Anh, Bộ trưởng Tài chính Harold MacMillan đã viết trong nhật ký: "Đêm hôm qua và cả ngày hôm nay đã diễn ra một cơn bão khủng khiếp nhất mà tôi từng biết tới."
Tại Cairo, Nasser đi tới rạp Metro để xem bộ phim Hãy gặp tôi ở Las Vegas. Sau đó là ba tháng đấu tranh ngoại giao tìm kiếm một thỏa thiệp, song mọi nỗ lực đều không mang lại kết quả gì. Đến tháng 9, những hoa tiêu người Anh và Pháp vẫn đang dẫn đường trên các con tàu đi qua kênh Suez rút đi theo yêu cầu của Công ty kênh Suez. Hoa tiêu được xem là những người quan trọng nhất trong lĩnh vực hàng hải thương mại và các quan chức cấp cao ở London và Paris cho rằng, nếu không có họ, người Ai Cập sẽ không thể tự mình điều hành hoạt động trên con kênh. Trên thực tế, cần phải có kỹ năng điêu luyện mới có thể dẫn dắt một con tàu đi qua con kênh, do mực nước ở đây nông cũng như những cơn gió đi ngang rất mạnh từ Sinai. Tuy nhiên, Chính phủ Ai Cập đã đào tạo các hoa tiêu người Ai Cập trong nhiều năm và đến thời điểm quốc hữu hóa con kênh, một số lượng đáng kể các hoa tiêu bản xứ đã sẵn sàng tiếp quản công việc này với sự hỗ trợ của các hoa tiêu người Liên Xô nhanh chóng được gửi đến. Vì thế, dưới sự lãnh đạo của Nasser, kênh đào này bị quốc hữu hóa vẫn tiếp tục hoạt động gần như bình thường. Ngay từ đầu, và trong suốt thời gian leo thang của cuộc khủng hoảng, Chính phủ Anh và Pháp luôn thể hiện rõ một điều: họ không muốn làm bất kỳ điều gì khiến cho giao thông, và nhất là trung chuyển dầu, qua kênh đào Suez bị gián đoạn. Tuy nhiên, không biết lập trường của Mỹ là thế nào? Không chỉ đối với Anh và Pháp mà thậm chí đối với một số quan chức Mỹ, lập trường của Mỹ tại thời điểm này dường như thật khó hiểu.
Tình hình càng trở nên phức tạp khi những mâu thuẫn cá nhân làm cho mối quan hệ giữa Eden và Dulles thêm căng thẳng. Sau một cuộc gặp gỡ đầy những bất đồng giữa hai người, thư ký riêng của Eden đã viết thư kể với một người bạn của mình: "Foster nói chậm đến nỗi Eden tức không muốn nghe, trong khi đó, Eden nói quanh co và theo một kiểu cách đặc biệt đến nỗi Foster, là một luật sư, không thể biết được ông ta nói gì".
Eisenhower cũng viết trong nhật ký rằng Eden "không phải là người có khả năng thuyết phục tốt và đôi lúc ông ta không hiểu được liệu phương pháp của mình có tác động đến người khác như thế nào". Dulles thì cho rằng Eden là một người vừa ngạo mạn, vừa chậm chạp. Tuy nhiên, bất đồng giữa họ không chỉ dừng lại ở đó. Giữa Eden và Dulles đã tồn tại xung đột về cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông Dương hai năm trước đó. Eden thúc đẩy biện pháp ngoại giao nhưng Dulles không quan tâm đến loại giải pháp hòa bình đó. Giờ đây, trong vấn đề Suez, họ lại ở vào các vị trí trái ngược. Một vài ngày sau khi kênh đào Suez bị quốc hữu hóa, tháng 8 năm 1956, Dulles tái khẳng định với ngoại trưởng Anh và Pháp là "cần phải tìm ra cách khiến Nasser phải trả lại" con kênh. Tuy nhiên, người Mỹ đã nghĩ ra một vài kế sách ngoại giao mà người Anh cho là phi thực tế và, nếu nhìn nhận với một con mắt hoài nghi, có mục đích trì hoãn việc Anh và Pháp can thiệp trực tiếp vào kênh đào Suez.
Trên thực tế, chính sách của Mỹ không phải do Dulles mà do Eisenhower quyết định. Ngay từ đầu, Tổng thống Mỹ đã cho rằng việc sử dụng vũ lực là không thể biện hộ được và muốn sử dụng biện pháp ngăn chặn, không cho Anh và Pháp can thiệp bằng quân sự. Ông tin rằng hai quốc gia châu Âu này không thể thành lập được một chính phủ dễ điều khiển và tồn tại được ở Ai Cập. Trong khi đó, hành động như vậy sẽ khiến không chỉ thế giới Arập mà toàn bộ các nước đang phát triển chống lại phương Tây, vô tình đẩy các nước này ngả về phía Liên Xô. Theo Ickes, điều này sẽ tạo điều kiện cho Liên Xô tuyên bố "quyền lãnh đạo thế giới". Ngoài ra, Eisenhower cũng nói với Eden rằng, "Nasser lớn lên trong thế giới của những vở kịch" và vì thế, việc tốt nhất nên làm là biến tình hình thành những vở kịch.
Tổng thống Hoa kỳ Eisenhower |
Đối với các cố vấn riêng, Eisenhower phàn nàn rằng người Anh có suy nghĩ "lỗi thời", trong khi Nasser là thần tượng của những người dân tại khu vực Trung Đông vì đã có công "đánh đuổi bọn da trắng". Một cuộc tấn công quân sự nhằm vào Ai Cập chắc chắn sẽ biến Nasser thành một người anh hùng của các nước đang phát triển, làm suy yếu các nhà lãnh đạo Arập thân Mỹ và khiến cho nguồn dầu mỏ Trung Đông rơi vào nguy hiểm. Eisenhower luôn cứng rắn khuyên London không sử dụng vũ lực. Đối với Eisenhower và các cố vấn của ông, chính sách của Mỹ hoàn toàn rõ ràng. Tuy nhiên, chính sách này không hoàn toàn thuyết phục được người Anh và người Pháp trong vấn đề Suez.
Đối với Eisenhower, một điều vô cùng quan trọng là không để nước Mỹ bị nhìn như đang ủng hộ, kể cả gián tiếp, xu hướng quay trở về kỷ nguyên thống trị thực dân. Ngược lại, tình hình ở Ai Cập có thể đem tới cho Mỹ cơ hội giành lấy sự ủng hộ của các quốc gia đang phát triển, dù cơ hội đó có thể dẫn tới sự phật ý từ các nước đồng minh truyền thống là Anh và Pháp. Sau khi nghe báo cáo về một tuyên bố của Eisenhower, Nasser nói đùa với một trợ lý: "Ông ta đứng về phía nào vậy?" Còn có một yếu tố khác, đó là việc Eisenhower sẽ tái ứng cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1956. Vào đầu nhiệm kỳ của ông, cuộc chiến tranh Triều Tiên đã kết thúc và ông được nhìn nhận là một người có tư tưởng hòa bình. Vào lúc này, một cuộc khủng hoảng quân sự xảy ra sẽ làm cử tri Mỹ khiếp sợ và đe dọa chiến dịch vận động tranh cử của ông. Sai lầm lớn của Anh và Pháp là họ không bao giờ xem xét lịch bầu cử tổng thống của Mỹ trong các tính toán của mình. Song song với những hoạt động ngoại giao, Anh và Pháp cũng tiến hành những hoạt động bí mật. Họ đã lên kế hoạch can thiệp quân sự vào khu vực kênh đào.
"Chúng tôi không định để bị bóp nghẹt đến chết"
Cả London và Paris đều rất muốn can thiệp bằng quân sự. Người Pháp coi Nasser là một mối đe dọa đối với vị thế của họ tại Bắc Phi. Nhà lãnh đạo Ai Cập này không chỉ tiếp tục khuyến khích quân phiến loạn ở Angiêri tiến hành một cuộc chiến tranh giành độc lập mà còn đào tạo và tiếp tế cho lực lượng này. Người Pháp quyết tâm hạ thấp Nasser và đòi lại con kênh đào được De Lesseps xây dựng bằng nguồn tài chính của Pháp. Trong khi đó, Nasser đang xây dựng lực lượng vũ trang với mục đích rõ ràng là chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh với Israel. Nasser luôn ủng hộ các cuộc tấn công du kích vào Israel và đã phong tỏa cảng Eiliat ở phía Bắc Israel và xét cho cùng, đây là một hành động tham chiến. Đó chính là động thái thúc đẩy Pháp tìm đến Israel và lúc này, hai nước đều có mong muốn lật đổ Nasser.
Tuy nhiên, đâu là lý do khiến Suez có ý nghĩa quan trọng đối với Anh như vậy? Dầu mỏ là một phần then chốt trong câu trả lời. Chỉ vài tháng trước khi con kênh bị quốc hữu hóa, vào tháng 4 năm 1956, nhóm công tác của "Ông B" và "Ông K", tức hai nhà lãnh đạo Liên Xô thời hậu Stalin là Nikolai Bulganin và Nikita Khrushchev, đã tới London. Trước khi gặp các nhà lãnh đạo Liên Xô, Eden đã cùng Eisenhower kiểm tra kỹ lại những gì mà ông dự định sẽ nói với họ và Eisenhower cũng rất đồng tình với nội dung nói chuyện dự kiến này. Eisenhower khuyên Eden: "Vận chuyển dầu qua kênh đào vốn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối việc phòng thủ và phát triển kinh tế của phương Tây, do đó chúng ta không nên chấp nhận bất kỳ yêu cầu nào và ở bất kỳ một phạm vi nào nếu việc đó có thể giúp Liên Xô kiểm soát việc sản xuất và vận chuyển dầu."
Trong quá trình đàm phán với các nhà lãnh đạo Liên Xô, Eden đã cảnh báo họ về việc can thiệp vào Trung Đông. Ông nói: "Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề dầu ở Trung Đông vì chúng tôi sẽ chiến đấu vì nguồn tài nguyên này." Cuối cùng, ông đưa ra kết luận: "Chúng tôi không thể sống thiếu dầu và chúng tôi không có ý định để mình bị bóp nghẹt đến chết." Việc Nasser giành quyền kiểm soát con kênh đào đã khiến khả năng đó trở nên hiện thực hơn bao giờ hết. Tình hình tài chính quốc tế của Anh không ổn định, cán cân thanh toán của nước này rất dễ bị tổn thương. Từ chỗ là chủ nợ lớn nhất thế giới, Anh đã trở thành con nợ lớn nhất thế giới. Dự trữ vàng và đô-la của nước này chỉ đủ dùng cho nhập khẩu trong ba tháng. Hoạt động sản xuất dầu tại Trung Đông đóng góp lớn cho tổng thu nhập ở nước ngoài của Anh, nên việc mất đi quyền khai thác dầu này đồng nghĩa với những tổn thất kinh tế khủng khiếp. Chiến thắng của Nasser ở Ai Cập có thể đem lại những hậu quả giống như chiến thắng của Mossadegh ở Iran. Uy tín của Anh sẽ bị ảnh hưởng và vấn đề quan trọng là người Anh thấy rằng họ đang mất vị thế ở mọi nơi.
Với tư cách là người chiến thắng, Nasser sẽ lật đổ các chế độ thân Anh và làm suy yếu vị thế của Anh và Mỹ trong lĩnh vực dầu lửa trên toàn bộ Trung Đông. Eden cảnh báo Eisenhower về thời khắc "Nasser có thể không cho Tây Âu có dầu và số phận của chúng ta sẽ do ông ta định đoạt". Eden lo ngại không chỉ về vấn đề dầu lửa và kinh tế mà cả về việc Liên Xô sẽ lấp đầy khoảng trống quyền lực ở Trung Đông. Một quan chức Bộ Ngoại giao Anh nhớ lại: "Eden rất lo ngại sự mở rộng của Liên Xô ở Trung Đông. Vì người Mỹ chưa sẵn sàng tiếp quản Trung Đông từ tay người Anh nên người Anh vẫn phải gánh vác nhiệm vụ không cho Liên Xô nhảy vào khu vực này." Bộ trưởng Tài chính Anh Harold Macmillan cũng có suy nghĩ như Eden về nguy cơ đối với nguồn cung dầu lửa và những tác động nghiêm trọng của nó. Trước những nhận định ảm đạm của Eden về việc can thiệp bằng vũ lực, ông vẫn là một con người mạnh mẽ, khác với những con người khác.
Macmillan viết trong nhật ký: "Sự thật là chúng ta bị rơi vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan tệ hại. Nếu thực hiện biện pháp mạnh đối với Ai Cập, và kết quả thu được là kênh đào Suez bị đóng cửa, các đường ống tới Levant bị cắt, khu vực Vịnh Ba Tư nổi dậy và sản xuất dầu bị đình trệ, thì Anh và Tây Âu đã "thất bại". Nhưng "nếu chúng ta chịu một thất bại ngoại giao, nếu Nasser "kiểm soát được tình hình" và các quốc gia Trung Đông đua nhau "quốc hữu hóa dầu lửa"… thì chúng ta cũng "thất bại". Vậy chúng ta phải làm gì? Tôi nhận thấy một điều rõ ràng là chúng ta nên chớp lấy cơ hội duy nhất mà chúng ta có được – dùng biện pháp mạnh và hy vọng bằng cách này, những người bạn của chúng ta ở Trung Đông sẽ đứng vững, kẻ thù của chúng ta sẽ ngã và dầu sẽ vẫn còn. Tuy nhiên, đây là một quyết định khủng khiếp."
Lại ở "Rhineland" – 20 năm sau
Đối mặt với cuộc khủng hoảng, Eden, Macmillan và cả Thủ tướng Pháp Guy Mollet đều bị ám ảnh bởi những ký ức lịch sử khó phai. Họ cho rằng Nasser là Mussolini sống lại, thậm chí là một Hitler mới. Họ cho rằng, mới chỉ một thập kỷ trôi qua kể từ khi phe Trục bị đánh bại, một kẻ đầy mưu mô trở thành một nhà độc tài mị dân đã nổi lên hiên ngang trên trường quốc tế, kích động quần chúng gây bạo lực và chiến tranh nhằm mục đích theo đuổi những tham vọng lớn. Trải nghiệm lớn nhất của các nhà lãnh đạo phương Tây là hai cuộc chiến tranh thế giới.
Đối với Eden, thất bại của chính sách ngoại giao trong việc ngăn chặn thảm kịch đã bắt đầu năm 1914. Sau này, ông có viết: "Ở một mức độ nào đó, tất cả chúng ta đều giữ nguyên dấu ấn những sự kiện xảy ra trong thế hệ chúng ta, với tôi, đó là vụ ám sát ở Sarajevo và những gì diễn ra sau đó." Nhìn lại quá trình ngoại giao và chính sách của các nước Đồng minh trong những thời khắc có ý nghĩa quyết định của năm 1914, ông nói: "Giờ đây, chúng ta không dám đọc lại hồ sơ và luôn cảm thấy rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã luôn luôn chậm một bước… Luôn luôn chậm một bước, một bước chậm chết người." Thất bại của các chính phủ vì thực thi không đúng lúc các chính sách ngoại giao càng được khắc họa rõ nét hơn trong hồi ức về những sự kiện xảy ra trong thập niên 1930. Năm 1956 đánh dấu năm thứ 20 kể từ ngày Hitler tái vũ trang Rhineland, vi phạm các nghĩa vụ hiệp ước. Lẽ ra, năm 1936, Anh và Pháp đã có thể chặn nhà độc tài người Đức này.
Hitler lẽ ra đã bị lật đổ và 10 triệu người sẽ không thiệt mạng. Tuy nhiên, các cường quốc phương Tây đã không hành động. Một lần nữa, năm 1938, các quốc gia phương Tây lại không ủng hộ Tiệp Khắc và nhượng bộ Hitler tại Munich. Cũng tại đó, đáng lẽ ra Hitler có thể bị chặn lại và cuộc thảm sát Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã không xảy ra. Eden đã từng can đảm từ chức ngoại trưởng năm 1938 để phản đối chính sách nhượng bộ đối với Mussolini và Hitler. Lúc này, vào mùa hè và đầu thu năm 1956, ông nhận thấy dường như Nasser đang áp dụng một chính sách "bành trướng quyền lực" tương tự. Theo Eden, triết lý cách mạng của Nasser cũng giống như Mein Kampf (Những cuộc chiến đấu của tôi) của Hitler. Nasser cũng muốn thiết lập một đế chế lớn và trong lời hiệu triệu của mình, Nasser nhấn mạnh rằng thế giới Arập nên sử dụng quyền lực có được nhờ quyền kiểm soát tài nguyên dầu lửa – "bộ phận đầu não có ý nghĩa sống còn của sự văn minh" – trong cuộc chiến chống lại "chủ nghĩa đế quốc". Nasser tuyên bố, nếu không có dầu, tất cả các máy móc và công cụ của thế giới công nghiệp "chỉ là những mảnh sắt, han gỉ, bất động và vô tri vô giác". Eden cũng đã cố gắng thỏa hiệp. Năm 1954, ông đã dùng uy tín cá nhân của mình để thương lượng với Ai Cập về việc rút quân Anh khỏi khu vực kênh đào và, vì lý do này, ông đã bị chính Đảng Bảo thủ của ông chỉ trích mạnh mẽ. Giờ đây, ông cảm thấy cá nhân mình bị Nasser phản bội. Cũng như Hitler, những lời hứa của Nasser hoàn toàn không có một chút giá trị nào.
Liệu có phải sự kiện chiếm giữ con kênh, một hành động vi phạm các thỏa thuận quốc tế, là một vụ Rhineland khác? Liệu những biện pháp ngoại giao dung túng và nhân nhượng Nasser lại là một hiệp ước Munich khác? Eden không muốn trải qua tất cả những việc này một lần nữa. Hai người anh em trai của ông đã chết trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, con trai cả của ông bị giết trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bản thân ông mắc nợ họ cũng như hàng triệu người khác đã chết vì năm 1914, các nước phương Tây đã quá chậm trễ trong việc chặn đứng cuộc khủng hoảng và năm 1930, các nước này đã không quả quyết ngăn chặn Hitler. Nếu phải dùng biện pháp quân sự để chống lại Nasser, tốt hơn hết là hành động ngay bây giờ thay vì sau này. Thủ tướng Mollet từng bị giam trong trại tập trung của Đức Quốc xã tại Buchenwald nên có cùng suy nghĩ với Eden, cũng như Ngoại trưởng Bỉ Paul Henri Spaak. Trong thời gian khủng hoảng, ông đã viết thư cho Ngoại trưởng Anh: "Tôi không muốn giấu ông rằng tôi bị ám ảnh bởi hồi ức về những sai lầm đã mắc phải khi Hitler mới nổi lên, những sai lầm đã khiến chúng ta phải trả giá bằng chính những người thân yêu của mình".
Những suy luận như vậy không có đủ sức thuyết phục với Mỹ như ở các nước Tây Âu. Tuy nhiên, nếu không có được sự đồng thuận về cách thức đối phó với Nasser, các nước phương Tây ít nhất sẽ phải lên kế hoạch đề phòng một cuộc khủng hoảng dầu lửa có thể xảy ra do tranh chấp con kênh. Eisenhower thành lập Ủy ban khẩn cấp về vấn đề Trung Đông chịu trách nhiệm nghiên cứu các biện pháp nhằm bảo đảm cung cấp dầu cho Tây Âu trong trường hợp kênh Suez bị phong tỏa. Bộ Tư pháp Mỹ cho các công ty tham gia vào kế hoạch này quyền miễn trừ chống độc quyền có giới hạn nhưng không đủ để các công ty có thể hợp tác với nhau nhằm phân bổ nguồn cung dầu lửa và trao đổi thông tin về nhu cầu dầu, tàu chở dầu và các dữ liệu hậu cần cần thiết để thành lập liên minh. Tuy nhiên, ủy ban này có sự liên lạc chặt chẽ với Ủy ban tư vấn cung cấp dầu lửa của Anh và Tổ chức hợp tác kinh tế châu Âu về các kế hoạch kiểm soát cuộc khủng hoảng. Nhìn chung, các công ty dầu lửa tin tưởng rằng sản lượng dầu lửa tăng lên tại Tây bán cầu, trên cơ sở năng lực sản xuất của Mỹ và Venezuela, có thể đáp ứng nhu cầu của Tây Âu.
Cuối tháng 7, Ban giám đốc Standard Oil của New Jersey nhận được báo cáo về các giải pháp thay thế kênh đào Suez mà công ty đã làm từ tháng 4. Thay vì đóng những tàu chở dầu lớn, nhóm nghiên cứu đề nghị xây dựng một tuyến ống có đường kính lớn nối từ Vịnh Ba Tư, qua Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ, tới Địa Trung Hải. Dự toán chi phí cho đường ống này là nửa tỷ đô-la với thời gian xây dựng khoảng bốn năm. Tuy nhiên, tuyến ống này đi qua nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau nên ẩn chứa nhiều nguy cơ. Liệu việc Syria không cho dầu chảy qua đường ống Tapline trong vòng 24 tiếng có lặp lại trong tương lai? Vào tháng 9, trong một bức điện gửi Eden, Eisenhower khẳng định "đề cao quá mức tầm quan trọng của Nasser" là một việc làm nguy hiểm. Đổi lại, Thứ trưởng Ngoại giao thường trực của Anh Invone Kirkpatrick đã đưa ra một câu trả lời sắc bén: "Tôi mong là tổng thống đúng nhưng tôi tin chắc rằng ông ấy sai… Nasser đang củng cố địa vị và dần dần kiểm soát các quốc gia có dầu. Ông ta nuôi dã tâm phá hoại chúng tôi. Nếu không có dầu Trung Đông trong vòng một hoặc hai năm, dự trữ vàng của chúng tôi sẽ hết. Nếu chúng tôi không còn vàng dự trữ, khu vực sử dụng đồng bảng sẽ tan rã và chúng tôi sẽ không thể duy trì lực lượng tại Đức hoặc bất kỳ một nơi nào khác. Tôi tự hỏi liệu chúng tôi có thể bảo đảm mức chi tiêu phòng thủ tối thiểu hay không.
Một quốc gia không còn khả năng chi trả cho hoạt động phòng thủ của mình thì xong đời." Cũng trong tháng đó, khi cuộc khủng hoảng Suez vẫn đang lại gần, Robert Anderson, một nhân vật giàu có của ngành công nghiệp dầu lửa Texas mà Eisenhower rất ngưỡng mộ, đã bí mật tới Arập Xêút với tư cách là đặc phái viên của tổng thống. Mục tiêu của chuyến đi này là thuyết phục Saud gây áp lực để Nasser thỏa hiệp. Tại Riyadh, Anderson cảnh báo vua Saud và Ngoại trưởng Arập Xêút, Hoàng tử Faisal, rằng những tiến bộ lớn về khoa học và kỹ thuật đã cho phép có được những những nguồn nhiên liệu có giá rẻ hơn và hiệu quả hơn so với dầu, có khả năng khiến nguồn tài nguyên dầu lửa của Arập và Trung Đông thành thứ vô giá trị. Mỹ có thể buộc phải cung cấp công nghệ này cho châu Âu nếu con kênh đào bị Nasser biến thành một công cụ để hăm dọa. Vua Saud hỏi thứ nhiên liệu thay thế đó có thể là gì. "Năng lượng nguyên tử", Anderson đáp. Dường như cả vua Saud và Hoàng tử Faisal đều đã từng đọc một số tài liệu về năng lượng nguyên tử nhưng không ai có ấn tượng gì trước câu trả lời này và cũng không tỏ ra lo lắng về khả năng cạnh tranh của nó với dầu lửa. Họ đã bỏ ngoài tai lời cảnh báo của Anderson. Trong khi đó, các nhà hoạch định chính sách chủ chốt của Anh và Mỹ cũng bắt đầu nghi ngờ về viễn cảnh giải quyết cuộc khủng hoảng bằng con đường ngoại giao, kể cả khi nó đã trở thành vấn đề trọng tâm tại Liên hợp quốc. Họ kết luận, chỉ có biện pháp quân sự mới tạo ra hiệu quả và có thể chặn đứng Nasser tại "Rhineland" của ông ta.
Sử dụng vũ lực
Ngày 24 tháng 10 năm 1956, ngoại trưởng và các quan chức ngoại giao và quân sự cấp cao của Anh và Pháp đã có cuộc gặp gỡ bí mật với các quan chức cấp cao của Israel là David Ben-Gurion, Moshe Dayan và Shimon Peres tại một biệt thự ở Sevres, ngoại ô Paris. Ba nước đã đạt được thỏa thuận sơ bộ: để phản ứng lại trước những mối đe dọa từ phía Ai Cập và gây áp lực quân sự, Israel sẽ tiến hành một cuộc tấn công quân sự ngang qua bán đảo Sina vào kênh đào Suez. Vị trí này gần như không có dân cư sinh sống. Anh và Pháp sẽ đưa ra một tối hậu thư về việc bảo vệ kênh đào và sau đó, nếu chiến sự xảy ra, Anh và Pháp sẽ tấn công khu vực con kênh để bảo vệ tuyến đường thủy quốc tế. Mục tiêu cuối cùng của Anh và Pháp là giải quyết cuộc khủng hoảng Suez và, đồng thời, lật đổ Nasser nếu có thể. Israel và Pháp có mối đồng cảm lớn hơn rất nhiều so với quan hệ giữa Israel và Anh. Anh không ưa gì Israel và người Do Thái. Trớ trêu thay, bản thân Eden − một người yêu mến người Arập cũng như văn hóa Arập và đã từng nói với thư ký riêng trong Chiến tranh thế giới thứ hai rằng: "Tôi thích người Arập hơn người Do Thái" − giờ đây cũng đang chuẩn bị cho cuộc chiến đấu chống lại vị lãnh đạo tự bổ nhiệm của thế giới Arập. Ngược lại, Bộ trưởng Tài chính Harold Macmillan nghĩ rằng người Do Thái "có chí khí". Tuy nhiên, tại Sèvres, Ngoại trưởng Anh Selwyn Lloyd và các trợ lý của ông lại tỏ vẻ coi thường người Israel. Thực ra, nhiều tuần trước đó, Anh đã tính đến chuyện sẽ giúp đỡ Jordani nếu chiến tranh nổ ra giữa Israel và Jordani. Một lý do khiến Pháp đi đầu tại Sèvres trong việc đưa Israel vào các kế hoạch của Anh và Pháp là để bảo đảm rằng Anh và Israel không xung đột về vấn đề Jordani trong khi đang đối đầu với Ai Cập.
David Ben-Gurion, Moshe Dayan và Shimon Peres |
Ngay trước khi diễn ra thỏa thuận bí mật tại Sèvres, Ai Cập và Syria đã thành lập một lực lượng quân đội chung dưới sự chỉ đạo của Ai Cập. Sau đó, Jordani cũng đồng ý gia nhập lực lượng chung này. Những gì đã diễn ra không còn có thể thay đổi được nữa. Tuy nhiên, lúc này còn xảy ra một trong những chuỗi biến cố cá nhân và chính trị kỳ lạ khiến cuộc khủng hoảng Suez càng trở nên phức tạp hơn. Ngày 24 tháng 10, ngày diễn ra cuộc gặp ở Sèvres, Hồng quân tiến vào Budapest đàn áp một cuộc cách mạng chống Liên Xô tại Hungary. Anthony Eden có vấn đề về sức khỏe. Năm 1953, trong một cuộc phẫu thuật túi mật, một bác sĩ bất cẩn đã làm hỏng ống mật của ông. Sau một cuộc phẫu thuật khác đưa ống mật nhân tạo vào thay thế, Eden trở thành người "có một bộ phận giả lớn ở bên trong". Từ đó Eden cũng hay ốm hơn và thường xuyên phải chịu đựng những cơn đau do áp lực công việc. Sau này, một số người cho rằng tình trạng sức khỏe đó có thể khiến não bị đầu độc theo đúng nghĩa đen của từ này.
Tình hình trở nên tồi tệ tới mức Eden bắt đầu phải dùng ma túy để giảm bệnh đau dạ dày và dùng các thuốc kích thích để chống lại tác dụng của thuốc giảm đau. Khi đó, người ta còn chưa biết rõ về phản ứng và các tác dụng phụ của những loại thuốc này. Người ta chỉ thấy Eden ở trong trạng thái bị kích động mạnh. Liều dùng của hai loại thuốc này tăng lên đáng kể sau khi Nasser quốc hữu hóa kênh Suez. Vào đầu tháng 10, Eden ngã bệnh và được đưa tới bệnh viện trong tình trạng sốt cao tới 41°C. Mặc dù trở lại điều hành công việc trong phần lớn thời gian của tháng 10, Eden tiếp tục có những biểu hiện của tình trạng sức khỏe kém và phải áp dụng một chế độ điều trị đặc biệt với liều dùng thuốc ngày càng cao hơn.
Có một sự thay đổi rõ ràng trong tính cách của Eden. Một quan chức tình báo của Anh bí mật kể cho một người đồng nhiệm phía Mỹ: "Mọi người ở phố Downing nói với tôi rằng Eden cảm thấy mệt mỏi và lo lắng." Đôi lúc, Eden tìm cách tự giải tỏa khỏi sự căng thẳng và sự ốm yếu bằng cách ngồi trong phòng vẽ tranh của vợ tại số 10 phố Downing và nhìn không chớp mắt vào bức tượng của Degas tạc một cô gái đang tắm mà nhà sản xuất phim Alexander Korda đã tặng ông. Eden không phải là người duy nhất bị suy sụp trong giai đoạn này. Eisenhower cũng bị một trận đau tim năm 1955. Tháng 6 năm 1956, ông lại bị viêm ruột và phải phẫu thuật. Như vậy, trong bối cảnh cuộc đối đầu sắp xảy ra, hai nhân vật chính tại hai bờ Đại Tây Dương đều ở trong tình trạng sức khỏe tồi tệ. Một nhân vật thứ ba nữa cũng sắp rơi vào tình cảnh tương tự. Sau nhiều tháng lưỡng lự và trì hoãn, các sự kiện bắt đầu diễn biến với tốc độ nhanh chóng.
Ngày 29 tháng 10, Israel biến thỏa thuận tại Sèvres thành hành động, mở một cuộc tấn công vào Sinai. Ngày 30 tháng 10, London và Paris đưa ra tối hậu thư tuyên bố ý định chiếm đóng khu vực kênh đào Suez. Cùng ngày, Liên Xô rút quân khỏi Budapest với lời hứa sẽ không can thiệp vào Hungary. Ngày hôm sau, 31 tháng 10, Anh ném bom các sân bay của Ai Cập và quân đội Ai Cập bắt đầu nhanh chóng rút lui khỏi Sinai. Cuộc hành quân Suez làm cho Mỹ hoàn toàn bất ngờ. Nghe được thông tin đầu tiên về cuộc tấn công của Israel khi đang thực hiện chiến dịch vận động tranh cử tại miền Nam, Eisenhower tỏ ra rất giận dữ. Rõ ràng Eden và các đồng minh của ông đã lừa dối ông. Biết đâu họ chẳng gây ra một cuộc khủng hoảng trên phạm vi quốc tế rộng lớn, và không loại trừ cả việc đụng độ trực tiếp với Liên Xô. Họ làm vậy trong khi Mỹ đang bận rộn với cuộc bầu cử tổng thống diễn ra trong tuần tới. Eisenhower lập tức gọi điện cho Eden.
Cơn giận của Eisenhower lên cao đến nỗi khi máy điện thoại có tín hiệu ông đã giáng một trận chỉ trích kịch liệt lên người nhấc máy, trợ lý của Eden, trước khi Eden kịp nghe máy. Ngày 3 tháng 11, đến lượt Dulles phải vào bệnh viện. Ông bị phát hiện là mắc bệnh ung thư dạ dày và phải cắt bỏ một phần lớn dạ dày. Như vậy, đến lúc này, ba nhân vật chính đã mắc bệnh. Kể từ ngày 3 tháng 11 trở đi, việc điều hành chính sách đối ngoại hàng ngày của Mỹ do Thứ trưởng Ngoại giao Herbert Hoover Con chịu trách nhiệm. Đây chính là người đã thành lập liên minh dầu lửa Iran và ở London, người ta coi ông là khắc tinh của Anh. Vì nhiều lý do như các vấn đề hậu cần, kế hoạch quân sự không hoàn chỉnh và tình trạng sức khỏe không ổn định của Eden nên phải mất nhiều ngày sau, lính Anh và Pháp mới thực hiện phần tiếp theo trong tối hậu thư của họ và mở cuộc tấn công vào khu vực kênh đào. Trong khi đó, Naser đã nhanh chóng hành động tại nơi hiểm yếu nhất. Ông cho đánh đắm hàng loạt tàu thủy chất đầy đá, xi măng và vỏ lon bia để chặn con kênh đào lại, cắt đứt tuyến cung cấp dầu lửa. Theo chỉ đạo của Nasser, các kỹ sư người Syria phá hủy các trạm bơm dọc đường ống của Công ty dầu lửa Iraq nhằm làm giảm lượng cung cấp dầu trên tuyến ống này.
Trong kế hoạch chung tay đối phó với sự thiếu hụt nguồn cung dầu lửa trong trường hợp Nasser cho đóng cửa kênh đào, người Anh luôn đặt giả thiết rằng Mỹ sẽ đứng ra gánh vác mọi chuyện và sẽ sử dụng nguồn cung dầu lửa của Mỹ. Giả thiết này là một sai lầm nghiêm trọng không kém gì sai lầm khi người Anh không để ý gì tới ngày diễn ra cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ. Eisenhower đã từ chối mọi thỏa thuận cung cấp dầu trong trường hợp khẩn cấp cho Anh. Eisenhower nói với một trợ lý của ông: "Tôi nghĩ là nên để những người phát động cuộc hành quân này tự xoay xở với các vấn đề về dầu lửa của họ, sục sôi trong dầu của họ và để họ tự hiểu ra vấn đề." Dầu lửa chính là đòn trừng phạt mà Washington áp dụng với các đồng minh Tây Âu.
Ngày 5 tháng 11, Israel đã củng cố quyền kiểm soát tại Sinai và dải Gaza, đồng thời siết chặt eo biển Tiran. Cùng ngày, các lực lượng của Anh và Pháp bắt đầu cuộc tấn công bằng không quân vào khu vực kênh đào. Một nhà ngoại giao người Anh tại Liên hợp quốc kể lại: "Tôi nhớ cuộc điện thoại mà Eden gọi và nghe thấy giọng nói quý phái và nhanh kiểu thời Chiến tranh thế giới thứ nhất: "Lính dù đang nhảy xuống". Đó là một thế gới không có thực, cứ như thể ông ấy đang gọi đến từ sao Hỏa." Một ngày trước đó, lính Liên Xô lại tiến vào Budapest và bắt đầu thẳng tay đàn áp lực lượng nổi dậy ở Hungary. Sự trùng hợp với cuộc tấn công vào Suez khiến các nước phương Tây không thể có được một phản ứng chung hữu hiệu trước cuộc tiến công đó. Trên thực tế, Liên Xô còn mạnh miệng tố cáo Anh, Pháp và Israel là "những kẻ xâm lược" và đe dọa sẽ can thiệp quân sự, có thể là tấn công hạt nhân, vào Paris và London. Eisenhower khẳng định, bất kỳ một cuộc tấn công nào như vậy cũng sẽ dẫn tới những cuộc phản công kinh hoàng vào Liên Xô hiển nhiên "như thể hết ngày rồi lại đến đêm" vậy.
Xưng tội
Bất chấp câu trả lời của Ickes, sự giận dữ của Chính phủ Mỹ đối với Anh, Pháp và Israel không hề giảm đi. Washington vẫn giữ nguyên thông điệp của mình: Mỹ không tán thành hành động quân sự, Anh và Pháp nên dừng lại. Ngày 6 tháng 11, Eisenhower giành chiến thắng lớn trước đối thủ Adlai Stevenson trong cuộc bầu cử tổng thống. Cùng ngày, Anh và Pháp chấp nhận ngừng bắn. Đến thời điểm đó, họ mới chỉ kiểm soát được một vị trí trên toàn bộ con kênh đào. Với họ, cuộc chiến tranh mới chỉ kéo dài có một ngày và mục tiêu của cuộc chiến là giành quyền sử dụng kênh Suez không hạn chế giờ đã thất bại. Tuy nhiên, Washington khẳng định rằng chỉ ngừng bắn thôi là chưa đủ; Anh, Pháp và cả Israel phải rút quân khỏi khu vực này. Nếu không rút quân, Israel sẽ phải đối mặt với các hành động trả đũa kinh tế của Mỹ. Eisenhower nói với các cố vấn riêng của ông rằng điều bắt buộc phải làm là "không được để cho người Arập phải đau đớn vì tất cả chúng ta", vì như thể họ có thể cấm vận việc chuyên chở dầu từ khắp khu vực Trung Đông. Nếu không có sự giúp đỡ của Mỹ, Tây Âu sẽ nhanh chóng rơi vào cảnh thiếu dầu. Mùa đông đang đến gần và kho dự trữ dầu của các nước Tây Âu chỉ còn đủ dùng cho vài tuần. Tuyến đường vận chuyển thông thường cho 3/4 lượng dầu của Tây Âu giờ đã bị gián đoạn do dầu vừa không thể vận chuyển qua kênh đào Suez, vừa không thể đi qua các đường ống ở Trung Đông. Ngoài ra, Arập Xêút đã tiến hành cấm vận đối với Anh và Pháp. Tại Côoét, các hoạt động phá hoại khiến cho hệ thống cung cấp của nước này phải đóng cửa.
Khi Ủy ban Ai Cập của Nội các Anh nhận được tin rằng Mỹ đang xem xét lệnh trừng phạt về dầu lửa đối với Anh và Pháp, Harold Macmillan giơ hai tay lên trời: "Trừng phạt về dầu ư! Thế là hết!" Ngày 7 tháng 11, Chính phủ Anh thông báo rằng lượng tiêu thụ dầu phải được cắt giảm 10%. Khi bước chân vào Hạ viện, Eden được đón chào bởi những tiếng huýt sáo chế nhạo từ phía Công Đảng đối lập. Công Đảng đã thay đổi thái độ ban đầu về một chính sách mạnh tay chống lại Nasser. Những người chỉ trích trong Nghị viện Anh giờ đây nói rằng nếu vé chia định mức xăng dầu được áp dụng, chúng phải được in hình chân dung Anthony Eden.
Ngày 9 tháng 11, Eisenhower có cuộc gặp với Hội đồng an ninh quốc gia để bắt đầu xem xét việc giúp đỡ các nước châu Âu. Ông đề cập tới việc cho các công ty dầu lửa hợp tác với nhau trong một chương trình cung cấp lớn. "Mặc kệ ngài chưởng lý cứng rắn của tôi", Eisenhower nói và mỉm cười, ông sẽ cấp cho các công ty một chứng chỉ rằng họ đang hoạt động vì lợi ích an ninh quốc gia để bảo vệ họ khỏi những vụ kiện chống độc quyền. Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu những người đứng đầu các công ty dầu lửa này vẫn phải ra tòa vì tham gia vào chương trình này? Eisenhower cười lớn và nói rằng ông sẽ bỏ qua cho họ. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định rõ rằng tất cả những việc này chỉ là kế hoạch dự phòng. Bởi sẽ không một chương trình cung cấp dầu lửa khẩn cấp nào được thực hiện trước khi Anh và Pháp thật sự bắt đầu rút quân khỏi Ai Cập. Các nước châu Âu phàn nàn rằng Mỹ sắp sửa trừng phạt Anh và Pháp bằng cách "giam họ trong nhà xưng tội".
Các công ty dầu lửa quốc tế nhận thấy tình trạng thiếu hụt dầu gia tăng và tha thiết đề nghị chính quyền Eisenhower đưa Ủy ban khẩn cấp về vấn đề Trung Đông vào hoạt động. Tuy nhiên, theo cách nói của một giám đốc công ty dầu lửa, "chính quyền Eisenhower dứt khoát từ chối". Anh còn bị tổn thương về kinh tế theo một cách khác. Lĩnh vực tài chính quốc tế của nước này rất yếu kém và ngay khi cuộc tấn công quân sự bắt đầu tại Suez, giá trị đồng bảng bắt đầu sụt giảm nhanh chóng. Người Anh đinh ninh rằng sự sụt giảm này được thực hiện với sự mặc nhận, thậm chí là ủng hộ và xúi giục của chính quyền Eisenhower. Do sự thúc đẩy của Mỹ, Quỹ tiền tệ quốc tế từ chối những lời cầu khẩn xin viện trợ tài chính khẩn cấp của London. Công sứ phụ trách kinh tế của Đại sứ quán Anh tại Washington báo cáo về London rằng ông "không còn lối đi nào" để tìm được sự hỗ trợ tài chính cấp thiết ở Mỹ. Ông nói thêm, người Mỹ "dường như đang quyết tâm đối xử với chúng ta như với những đứa trẻ bướng bỉnh đã được dạy là không được đi quá xa nhưng vẫn tự ý hành động mà không xin phép bà bảo mẫu". Đến giữa tháng 11, lực lượng "gìn giữ hòa bình" của Liên hợp quốc bắt đầu tới Ai Cập. Tuy nhiên, Tổng thống Eisenhower cho rằng, quá trình chuộc tội vẫn chưa kết thúc và Ủy ban khẩn cấp về vấn đề Trung Đông của Mỹ sẽ chỉ đi vào hoạt động khi tất cả binh lính Anh và Pháp đã rút hết khỏi Ai Cập.
Tình trạng thiếu dầu sắp xảy ra. Eisenhower viết thư cho tướng Ismay, hiện đang là người đứng đầu NATO, và kể về "nỗi buồn vì thế giới tự do đã bị liên lụy". Ông "không phải không quan tâm đến cảnh ngộ khốn khổ về dầu và tài chính của Tây Âu" nhưng vẫn nhắc đi nhắc lại mong muốn không "chống lại thế giới Arập". Ông nói, lý do cuối cùng là "một vấn đề vô cùng nhạy cảm, không thể được bàn bạc công khai". Trong bức thư trả lời, Ismay đánh giá cao những gì mà Eisenhower nói. Tuy nhiên, ông cũng bí mật cảnh báo Tổng thống Mỹ rằng "vào mùa xuân tới, lực lượng của NATO sẽ gần như không thể huy động được vì thiếu dầu". Cuối cùng, vào cuối tháng 11, khi London và Paris cam kết sẽ nhanh chóng rút quân khỏi Suez, Eisenhower mới cho phép Ủy ban khẩn cấp về vấn đề Trung Đông đi vào hoạt động. Người Mỹ đã thắng nhưng họ cũng làm cho thất bại của Anh và Pháp trở nên nặng nề hơn. Trong mớ sự kiện rắc rối này, có lẽ Nasser là người giành thắng lợi rõ ràng nhất.
Tuy nhiên, vào giữa tháng 11, trong khi quân Anh và Pháp vẫn còn ở Ai Cập, Ngoại trưởng Anh Selwyn Lloyd đến thăm John Foster Dulles tại bệnh viện Walter Reed và tại đó đã diễn ra một cuộc đối thoại kỳ quặc nhất, ít nhất là theo sự hồi tưởng của Lloyd. "Selwyn, tại sao ông lại dừng lại? Tại sao ông không tiếp tục hành động và hạ Nasser?" Dulles hỏi. Lloyd lặng người vì sửng sốt. Chính vị ngoại trưởng này và cả Chính phủ Mỹ đã làm mọi việc để ngăn chặn hành động của Anh và Pháp ngay từ khi mới bắt đầu. "Ồ, Foster," Lloyd trả lời, "nếu các ông làm ngơ thì có lẽ chúng tôi đã tiếp tục rồi." "Ông ấy đáng ra không nên làm điều đó." Dulles nói. "Thang máy nâng dầu" và "bát đựng đường": khắc phục khủng hoảng Tháng 12, chỉ một tháng sau khi kênh đào Suez bị đóng cửa, trong lúc Anh và Pháp bị cản lại và Tây Âu đang cận kề một cuộc khủng hoảng năng lượng, chương trình cung cấp khẩn cấp đã được đưa vào thực hiện.
Mang tên "Thang máy nâng dầu", chương trình này là sự hợp tác giữa chính phủ và các công ty dầu lửa tại cả châu Âu và Mỹ. Phần lớn hoạt động sản xuất dầu tại Trung Đông không bị gián đoạn. Vấn đề đầu tiên là vận chuyển dầu. Giải pháp cho vấn đề này là sử dụng những nguồn cung cấp khác. Do khoảng cách gần hơn và thời gian vận chuyển ngắn hơn, bất kỳ một tàu chở dầu nào cũng có thể vận chuyển từ Tây bán cầu sang châu Âu một lượng dầu gấp đôi so với việc vận chuyển từ vịnh Ba Tư qua mũi Hảo Vọng về châu Âu. Do đó, trọng tâm của các ủy ban khẩn cấp là huy động một số lượng lớn tàu chở dầu để Tây bán cầu một lần nữa lại là nguồn cung cấp dầu chính cho châu Âu như những gì diễn ra tới tận cuối thập niên 1940. Các tàu chở dầu này được chuyển sang tuyến đường vận tải khác và được các công ty sử dụng chung, đồng thời nguồn dầu cũng được trao đổi giữa các công ty. Tất cả những việc làm này đều nhằm mục đích vận chuyển dầu với tốc độ nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Tại châu Âu, nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm bảo đảm rằng lượng dầu cung khẩn cấp – hay còn được gọi là "bát đựng đường" – được phân phối công bằng tới nhiều quốc gia. Tổ chức hợp tác kinh tế châu Âu (sau này là Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế – OECD) thành lập một nhóm công tác khẩn về vấn đề dầu lửa để thực hiện việc phân bổ dầu dựa trên cơ sở lượng dầu sử dụng trước khi kênh đào Suez bị đóng cửa, lượng dầu dự trữ và các nguồn năng lượng trong nước. Chương trình Thang máy nâng dầu được thực hiện kết hợp với các biện pháp bổ sung như chia định mức và các biện pháp hạn chế nhu cầu khác. Bỉ ra lệnh cấm lái xe vào ngày Chủ nhật. Pháp cũng giới hạn lượng dầu các công ty bán ra ở mức 70% so với mức trước khi kênh đào Suer bị quốc hữu hóa. Tại Anh, các loại thuế mới đánh vào dầu được áp dụng khiến giá xăng dầu cao hơn, giá taxi cũng tăng cao lên và mọi người sẽ nhớ mãi cái tên "6 pence Suez", các nhà máy điện được khuyến khích chuyển từ dùng dầu sang dùng than vì Anh sẽ thực hiện việc chia định mức xăng vào cuối tháng 12. Việc sắp xếp các tàu chở dầu là vấn đề quan trọng, tuy nhiên việc cung cấp dầu hóa ra cũng là quan trọng không kém. Để đáp ứng nhu cầu của châu Âu, cần phải tăng mạnh sản lượng dầu của Tây bán cầu và phần lớn lượng bổ sung này là của Mỹ, nơi các giàn khoan dầu vẫn hoạt động thấp hơn công suất thiết kế.
Các công ty dầu lửa quốc tế cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động tìm kiếm dầu thô ở Mỹ để có được lượng dầu bổ sung nhiều nhất có thể cho chương trình Thang máy nâng dầu. Tuy nhiên, các công ty và các chính phủ có liên quan đều đã không tính đến Ủy ban đường sắt Texas. Cơ quan này khiến hầu hết tất cả mọi người phải sửng sốt vì nó không cho phép tăng sản lượng và không khai thác hết công suất dự trữ của các nhà máy trong những tháng cao điểm của mùa đông năm 1957. Đây là một chiến trường mới cho cuộc chiến không mới giữa các nhà sản xuất độc lập và các công ty dầu lửa lớn. Như một bản ghi nhớ nội bộ của ban giám đốc công ty Jersey nhận định, Ủy ban đường sắt Texas cho rằng các công ty dầu lửa độc lập luôn hoạt động vì "lợi ích của họ và chỉ là những lợi ích trong nước mà thôi". Ủy ban này lo ngại nếu kho dự trữ dầu thô cũng như dự trữ xăng trong nước tăng lên mà nhu cầu từ châu Âu không tăng thì giá xăng dầu sẽ bị giảm xuống. Và tất nhiên, ủy ban này muốn giá tăng lên, chứ không phải giảm xuống. Việc Ủy ban đường sắt Texas từ chối tăng sản lượng đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ. Eric Drake của Công ty dầu lửa Anh (British Petroleum) gọi đây "tai họa đối với châu Âu". Một trong số những đại diện tại châu Âu của Jersey cho rằng đây là một "thảm họa" và có thể khiến lượng dầu mà công ty này cung cấp cho châu Âu giảm tới 50%. Cả Eden và Macmillan đều phản đối chính sách này của Ủy ban đường sắt Texas. Báo chí Anh kịch liệt phê phán cơ quan nhỏ bé, ít tiếng tăm và bí hiểm ở tận vùng trung tâm Texas này.
Tờ Daily Express chạy tít: "Không thêm dầu – Những người khôn ngoan ở Texas nói." Thành viên đáng kính của Ủy ban đường sắt Texas, Đại tá E. O. Thompson, đã dùng những lời lẽ sắc bén để đáp lại những chỉ trích của Anh: "Chúng tôi đã chuyển tới nước này nhiều dầu thô nhưng thứ mà chúng tôi nhận được chỉ là sự chỉ trích vì đã không tuân thủ tất cả mọi mệnh lệnh của họ. Rõ ràng là Anh vẫn coi chúng tôi là một tỉnh hay một thuộc địa." Tâm trạng các nhà sản xuất dầu lửa Texas đã được cải thiện đáng kể khi họ có được thứ mà họ muốn từ các công ty lớn và thị trường. Lo ngại xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cung, một công ty con của Jersey tại Texas là Humble thông báo sẽ tăng giá mua dầu thô tại các mỏ thêm 35 xu/thùng. Các công ty khác cũng hành động theo Humble. Các công ty dầu lửa Texas lập tức tăng thêm sản lượng và chương trình Thang máy nâng dầu có được nguồn cung lớn hơn. Nhưng chẳng mấy chốc các nhà sản xuất dầu lửa Texas lại bị buộc tội thông đồng để nâng giá. Việc nguồn cung thiếu hụt và giá dầu tăng cao cùng lúc đặt ra hai yêu cầu cấp thiết là tăng cung và giảm cầu, hai giải pháp rất được hoan nghênh và có tác động tích cực trong bối cảnh khủng hoảng tại kênh đào Suez, và giúp cho chương trình Thang máy nâng dầu hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, dầu lửa và chính trị vẫn giữ nguyên bản chất của chúng, giá dầu tăng dẫn tới nhiều tranh cãi và những phiên điều trần với những lời lẽ buộc tội gay gắt tại Quốc hội Mỹ được ghi lại thành biên bản dài tới hơn 2.800 trang. Cùng lúc đó, Bộ Tư pháp lại tiến hành khởi tố 20 công ty dầu lửa bị buộc tội độc quyền. Cuối cùng, vụ kiện bị hủy năm 1960, sau khi một thẩm phán liên bang phán quyết rằng việc tăng giá dầu có "lý do kinh tế" và những bằng chứng của chính phủ đưa ra "không vượt qua được cái ngưỡng của sự nghi ngờ". Hoạt động điều phối và vận tải trong chương trình Thang máy nâng dầu được thực hiện trên diện rộng và phải nhờ tới kinh nghiệm và đội ngũ nhân sự của hệ thống cung cấp dầu của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Những vấn đề hành chính và quan liêu phức tạp cũng cần phải được giải quyết. Các chính phủ, các công ty và các ủy ban cung cấp cần đặt ra các hướng dẫn, dàn xếp và cung cấp thông tin, đồng thời bảo đảm các chương trình được thực hiện tốt.
Có nhiều nguy cơ xảy ra lộn xộn, nhưng chương trình Thang máy nâng dầu hoạt động hiệu quả đến mức có vẻ như nó hoàn toàn trôi chảy. Thực tế hóa ra không phải vậy. Sau này, một giám đốc công ty dầu lửa đã cố gắng giải thích rằng thật sai lầm khi tin rằng trong suốt cuộc khủng hoảng, "tất cả những gì phải làm là nhấn nút và mọi cái sẽ diễn ra tốt đẹp". Đó là lời động viên mà người ta nên nghĩ tới cho những cuộc khủng hoảng trong tương lai. Đến mùa xuân năm 1957, cuộc khủng hoảng dầu lửa cũng đi đến hồi kết, phần lớn là nhờ vào hiệu quả ngoài dự kiến của chương trình Thang máy nâng dầu. Gần 90% nguồn cung dầu lửa bị mất đã được bù đắp. Tại châu Âu, các biện pháp tiết kiệm tức thời và thời tiết ấm áp giải quyết phần thiếu hụt còn lại. Do đó, sự thiếu hụt trên thực tế chỉ là rất nhỏ. Nhìn chung, nền kinh tế châu Âu không bị tổn thương vì nguồn cung dầu lửa bị gián đoạn.
Năm 1956, dầu chỉ chiếm 20% tổng năng lượng tiêu thụ tại đây. Mặc dù đang có sự chuyển biến, châu Âu về cơ bản vẫn là một nền kinh tế phụ thuộc vào than và trong những năm sau đó, sự lệ thuộc này sẽ thay đổi. Tháng 3 năm 1957, các đường ống của Công ty dầu lửa Iraq đã được mở lại một phần và đến tháng 4, các tàu chở dầu có thể đi lại trên toàn bộ kênh đào Suez. Nasser đã thắng; con kênh đào giờ đây rõ ràng thuộc về Ai Cập và được nước này điều hành. Mặc dù không thể giỏi bằng các hoa tiêu người Anh và Pháp, các hoa tiêu Ai Cập cũng có đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình. Các quốc gia sản xuất dầu ở khu vực vịnh Ba Tư cũng sẵn sàng cung cấp dầu trở lại. Tại Côoét, sản lượng dầu đã giảm xuống một nửa vì không có khả năng vận chuyển. Tháng 4, Chính phủ Mỹ dừng chương trình cung cấp dầu khẩn cấp. Giữa tháng 5, Chính phủ Anh chấm dứt việc chia định mức dầu và sau đó đã miễn cưỡng chỉ đạo cho "tàu bè Anh sử dụng kênh đào Suez". Đến lúc này, cuộc khủng hoảng Suez đã thực sự kết thúc.
Sự ra đi của "Ngài Eden"
Một trong những người Mỹ tham gia vào chương trình cung cấp dầu khẩn cấp sau này có ghi lại: "Những tháng diễn ra cuộc khủng hoảng Suez là một khoảng thời gian kỳ lạ. Đó là quãng thời gian của hài kịch ở mức độ cao, âm mưu ở mức độ thấp và bi kịch ở mức sâu sắc, tuy nhiên phần lớn là bi kịch - đối với cả cá nhân và các quốc gia." Cuộc khủng hoảng này là một bi kịch cá nhân lớn đối với Thủ tướng Athony Eden, người được Nasser gọi là Ngài Eden. Trước khi xảy ra khủng hoảng, Eden có những thành tích phi thường nhờ khả năng dự báo các sự kiện tương lai, nhờ lòng quả cảm và kỹ năng ngoại giao. Tuy nhiên, danh tiếng của ông đã chìm nghỉm như những con tàu bị Nasser cho đánh đắm xuống đáy con kênh đào. Eden đã liên tục phải chịu những áp lực trong suốt thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng. Tháng 11, khi cuộc khủng hoảng vẫn ở trong giai đoạn cao trào, tình trạng sức khỏe kém đã buộc Eden phải đi nghỉ một thời gian dài ở Jamaica, trong một ngôi nhà do Ian Fleming, cha đẻ của nhân vật James Bond, cho mượn. Khi Eden trở về, các bác sĩ cho biết sức khỏe của ông sẽ không cho phép ông đảm nhiệm chức vụ thủ tướng nữa. Ông lặng lẽ sống từ Giáng sinh đến năm mới tại Chequers và nghĩ tới tương lai của mình. Trong một bức thư gửi cho một người bạn vào thời điểm đó, ông coi mình "là một người thật bảo thủ… Tôi thấy lạ là có quá ít người nghĩ tới việc so sánh sự kiện này với những gì đã xảy ra năm 1936, song chúng thật giống nhau."
Tháng 1 năm 1937, ông quyết định sẽ từ chức. Một trong những người đầu tiên được biết tin này là Harold Macmillan, sống ngay đối diện tại số 11 phố Downing. Eden gọi ông tới phòng vẽ nhỏ trong ngôi nhà số 10 cùng phố. Macmillan đã viết trong nhật ký: "Trong buổi chiều mùa đông ảm đạm đó, trông ông ấy vẫn thật trẻ trung, vui tươi và yêu đời – tiêu biểu cho những gì tốt đẹp nhất của thế hệ thanh niên đã phục vụ trong cuộc chiến tranh 1914 – 1918… Những người còn sống sót sau cuộc chiến kinh hoàng đó thường cảm thấy mình có một trách nhiệm đặc biệt, giống như những người đã mang một lời thề. Tôi và Eden đã tham gia vào chính trường với tinh thần này. Giờ đây, sau những năm tháng dài phục vụ và khi ở vào đỉnh cao quyền lực, Eden đã bị hạ gục vì một định mệnh kỳ bí và không thể tránh khỏi." Quá ngạc nhiên, Macmillan buồn bã trở về nhà. Sáng hôm sau, ngồi dưới một bức chân dung của Gladstone, ông lặng lẽ đọc cuốn Kiêu hãnh và định kiến để giải khuây. Một cú điện thoại đột nhiên cắt ngang và mời ông tới cung điện để được phong chức thủ tướng.
Cuộc khủng hoảng Suez là một bước ngoặt đối với Anh. Nó gây tổn hại nghiêm trọng với vị thế của nước này trên chính trường quốc tế và chỉ cho người ta thấy rõ những gì xảy ra như đã được dự báo từ trước. Anh không còn nằm trong số các cường quốc đứng đầu thế giới nữa. Những mất mát về người trong hai cuộc chiến tranh thế giới và mối chia rẽ nội bộ đã làm cạn kiệt không chỉ tài chính, mà cả sự tự tin và ý chí chính trị của Anh. Tuy nhiên, Eden vẫn cho rằng mình đã làm đúng những gì cần làm trong cuộc khủng hoảng này. Nhiều năm sau đó, tờ Times của London nói về Anthony Eden: "Ông là vị thủ tướng cuối cùng tin rằng Anh là một cường quốc lớn và là vị thủ tướng đầu tiên phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng rốt cục sẽ chứng tỏ rằng nước này không phải là cường quốc." Những lời này thật giống như những dòng văn bia dành cho một đế quốc, một nhà nước cũng như một con người.
Tương lai của an ninh: đường ống dẫn dầu đấu với tàu chở dầu
Cuộc khủng hoảng Suez khiến ngành công nghiệp dầu lửa quốc tế phải suy ngẫm nhiều. Mặc dù Suez đã mở cửa trở lại nhưng các công ty dầu lửa vẫn cho rằng họ không thể chỉ dựa vào con kênh đào này. Sau đó, các công ty dầu lửa và các chính phủ đã thảo luận nhiều về việc xây dựng thêm đường ống dẫn dầu. Tuy nhiên, việc Syria phá hoại đường ống của Công ty dầu lửa Iraq đã cho thấy những đường ống dẫn dầu dễ bị cắt đứt. Rõ ràng, đường ống không phải là câu trả lời duy nhất về câu hỏi lớn cho vận chuyển dầu lửa an toàn. Các nguy cơ rủi ro quá hiển nhiên. Trong cuộc thảo luận gay gắt diễn ra năm 1956 về tầm quan trọng huyết mạch của kênh đào Suez, người ta đã không chú ý nhiều đến một điểm: nếu con kênh đào này và các đường ống dẫn dầu ở Trung Đông dễ bị tổn thương, còn có một lựa chọn an toàn hơn là tuyến đường đi qua mũi Hảo Vọng. Nhưng xét về mặt kinh tế và thực tiễn, việc cung cấp dầu cho Tây Âu thông qua tuyến đường này đòi hỏi phải có những tàu chở dầu có trọng tải lớn hơn. Tuy nhiên, trong ngành công nghiệp dầu lửa, người ta cho là chúng không thể đóng được. Nhưng những xưởng đóng tàu của Nhật Bản với ưu thế về tiến bộ trong động cơ diesel và chất lượng sắt thép đã chứng tỏ điều ngược lại. John Loudon, giám đốc điều hành của Shell, nhớ lại: "Năm 1956, các công ty đóng tàu chở dầu cho rằng những con tàu lớn hơn sẽ rất đắt tiền và sử dụng rất nhiều nhiên liệu. Tôi rất ngạc nhiên là những con tàu như vậy đã được người Nhật nhanh chóng chế tạo ra." Những tàu chở dầu này sẽ không chỉ chứng tỏ tính ưu việt về kinh tế mà còn đem lại sự an toàn cần thiết. Một quan chức Anh đã nhận định: "Việc sử dụng những tàu chở dầu như vậy sẽ đỡ bị ảnh hưởng bởi những rủi ro chính trị".
Chấm dứt tình trạng chia rẽ trong vấn đề Suez
Sau cuộc khủng hoảng Suez, Anh và Pháp vẫn có thái độ gay gắt đối với Mỹ. Vào đầu năm 1957, Đại sứ Anh tại Washington đã bình luận chua cay rằng Eisenhower "có quan điểm của hướng đạo sinh Mỹ về chủ nghĩa thực dân, Liên hợp quốc và hiệu quả của những lời phát ngôn như hành động chính trị... Nhu cầu gìn giữ sức khỏe cùng với sở thích tự nhiên đã giúp ông ta là một trong những tổng thống nhàn rỗi nhất (nếu không phải là đáng kính nhất) trong lịch sử Mỹ". Trong suốt thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng, Mỹ đã tập trung củng cố vị thế của mình tại các quốc gia sản xuất dầu trong thế giới Arập. Bản thân Eisenhower cũng nhấn mạnh việc "đưa vua Saud trở thành một nhân vật chính ở Trung Đông" để thay thế Nasser và việc làm cho các nước Arập sản xuất dầu thấy rõ rằng Mỹ có ý định hành động để "phục hồi thị trường cho dầu lửa của Trung Đông ở Tây Âu". Ngoài ra, Mỹ còn tích cực ủng hộ các chính phủ thân phương Tây ổn định ở Trung Đông để tạo ra một bức tường chắn chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô. Anh và Pháp chắc chắn cũng có những mục tiêu chiến lược như vậy. Sự khác nhau giữa các nước này là ở các biện pháp thực hiện chứ không phải mục tiêu. Tuy nhiên, trên cả hai bờ Đại Tây Dương, người ta đã nhận ra sự cần thiết phải hàn gắn những rạn nứt trong quan hệ xung quanh vấn đề Suez. Đóng góp tích cực vào quá trình này có thủ tướng mới của Anh, Harold Macmillan, người nổi tiếng "điềm tĩnh" mặc dù sau này ông có thú nhận rằng ông thường phải "đau đớn vì những căng thẳng thần kinh".
Macmillan và Eisenhower đã làm việc cùng nhau trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai và vẫn duy trì được tình bạn cũng như sự tôn trọng lẫn nhau. Eisenhower nhận xét ông là "một người thẳng thắn và tao nhã". Macmillan là một người có đầu óc thực tế. Sau bài học cay đắng về cuộc khủng hoảng Suez, ông nói: "Số phận của chúng ta phần nhiều nằm trong tay các nhà lãnh đạo Washington." Đó đơn giản là một sự thật. Về những lời chúc tốt đẹp của Eisenhower, Macmillan đáp lại: "Tôi không có ảo tưởng về những vấn đề hóc búa đang đợi tôi nhưng quãng thời gian 33 năm làm việc trong Nghị viện khiến tôi khá cứng rắn mà không, tôi hy vọng thế, làm giảm khiếu hài hước của tôi." Dĩ nhiên, Trung Đông, dầu lửa và rạn nứt trong quan hệ đồng minh với Mỹ là những vấn đề đau đầu nhất của Macmillan.
Quá trình chính thức nhằm hàn gắn lại mối quan hệ khởi đầu bằng hội nghị Bermunda giữa Eisenhower và Macmillan vào tháng 3 năm 1957 tại Câu lạc bộ Golf Mid-Ocean. Dầu khiến Macmillan bận tâm nhiều trong suốt quá trình ông chuẩn bị cho cuộc gặp. Ông đề nghị có một tấm bản đồ cho thấy vị trí của nhiều công ty dầu lửa khác nhau ở Trung Đông cũng như một "cây phả hệ" của chính những công ty này. Mối đan xen giữa dầu lửa và an ninh của Trung Đông cũng là một chủ đề chính của cuộc gặp gỡ. Sau này, Eisenhower nói rằng đó là một "cuộc trao đổi rất thẳng thắn" về dầu lửa, bao gồm khả năng thúc đẩy việc đóng mới những siêu tàu chở dầu. Vụ kênh đào Suez đã cho tất cả các cường quốc phương Tây thấy tính khí thất thường của Trung Đông; và tại Bermunda, Anh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì nền độc lập của Côoét và các nhà nước khác dọc vịnh Ba Tư bởi những người đứng đầu các nước này đều rất dễ bị ảnh hưởng bởi cuộc đảo chính của Nasser. Cả hai bên đồng ý để Anh làm tất cả những việc cần thiết nhằm bảo đảm an ninh cho Vùng Vịnh. Do dầu lửa của Trung Đông là "chiến lợi phẩm lớn nhất thế giới," Macmillan thúc giục việc hợp tác giữa các chính phủ nhằm đạt được hòa bình và thịnh vượng dài lâu tại khu vực này.
Theo Macmillan, đây là một "giải pháp chung" mà họ đã sử dụng trong suốt cuộc chiến tranh. Hội nghị Bermunda đã thực sự góp phần hàn gắn mối quan hệ rạn nứt giữa Anh và Mỹ. Eisenhower và Macmillan hứa sẽ viết thư riêng cho nhau mỗi tuần. Xét cho cùng, cả hai quốc gia có cùng mục tiêu ở Trung Đông. Tuy nhiên, từ cuộc khủng hoảng Suez và những bước tiếp theo trong những năm tới, Mỹ đã thay thế Anh và Mỹ mới chính là nước có sức mạnh thống trị tại khu vực này. Năm 1970, mười bốn năm sau cuộc khủng hoảng Suez, Đảng Bảo thủ giành thắng lợi trong cuộc tổng bầu cử ở Anh và Edward Heath trở thành thủ tướng. Tân thủ tướng tổ chức một bữa tối tại số 10 phố Downing dành cho ngài Avon, tên gọi mới của Anthony Eden, đồng thời cũng là người lãnh đạo trực tiếp của Heath năm 1956, trong suốt cuộc khủng hoảng Suez.
Đối với Eden, việc trở lại số 10 phố Downing với tư cách khách mời danh dự là một cảm giác tuyệt vời. Heath có một bài nói chuyện dí dỏm và hấp dẫn, còn Eden thì ứng khẩu nhanh chóng. Ông dành cho người Anh một lời chúc đặc biệt – rằng họ có thể phát hiện ra một "hồ dầu" nằm bên dưới Biển Bắc. Đó chính là điều mà người Anh sẽ bắt đầu tìm năm 1970, mặc dù họ không thể tận dụng nó đúng lúc để ngăn chặn một cuộc khủng khoảng năng lượng khác sẽ lật đổ Edward Heath. Tình hình sẽ rất khác nếu như năm 1956 người Anh biết được, thậm chí chỉ mơ hồ, về sự tồn tại của một cái hồ như thế.
(Còn tiếp)
Nam Hà (giới thiệu)