Toàn văn giải trình của Thủ tướng trước Quốc hội
Sáng nay, 14/11, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng báo cáo, giải trình trước Quốc hội. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bản báo cáo này.
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,
Thưa đồng chí, đồng bào,
Trước hết, thay mặt Chính phủ, tôi xin chân thành cảm ơn Quốc hội đã cơ bản đồng tình với các Báo cáo của Chính phủ và đã thông qua các Nghị quyết về kinh tế, xã hội năm 2013.
Tại Kỳ họp này, các đại biểu Quốc hội đã gửi 175 phiếu chất vấn với 247 câu hỏi đến Thủ tướng và các thành viên Chính phủ; trong đó, có 05 phiếu với 11 câu hỏi chất vấn Thủ tướng. Thủ tướng Chính phủ đã uỷ nhiệm và yêu cầu các thành viên Chính phủ theo chức năng nhiệm vụ được giao, trả lời bằng văn bản gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Hai ngày qua, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã trình bày Báo cáo về thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn, trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2, thứ 3 và đã có 4 Bộ trưởng trực tiếp cùng Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và 03 Bộ trưởng tham gia trả lời chất vấn tại Hội trường.
Thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo, giải trình thêm về một số nội dung mà nhiều đại biểu Quốc hội và đồng bào cả nước quan tâm, chất vấn. Đây cũng là những công việc mà Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo trong thời gian tới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng báo cáo, giải trình trước Quốc hội
VỀ CẬP NHẬT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ YÊU CẦU CHỈ ĐẠO ĐIỀU HÀNH NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM
1. Đầu kỳ họp, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tình hình kinh tế, xã hội 9 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2012. Trong tháng 10 và nửa đầu tháng 11, tình hình kinh tế, xã hội tiếp tục chuyển biến theo hướng tích cực. Giá tiêu dùng tháng 10 tăng 0,85%, thấp hơn nhiều so với mức tăng của tháng 9, 10 tháng tăng 6,02%. Thu ngân sách 10 tháng đạt 76,2%, chi ngân sách đạt 78,8% dự toán. Xuất khẩu 10 tháng tăng 18,4%; nhập khẩu tăng 6,8%. Cán cân thanh toán tiếp tục được cải thiện, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10 tăng 5,8% (tháng 9 tăng 4,6%); tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước cả năm tăng 3,9%; xuất khẩu gạo cả năm khoảng 7,5 triệu tấn, cao nhất từ trước đến nay.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và tiêu dùng dịch vụ tăng 17,1% (nếu loại trừ yếu tố tăng giá còn tăng 6,8%). Khách quốc tế đến Việt Nam đạt 5,35 triệu người, ước cả năm đạt 6,5 triệu người, tăng 8,1%. Đã tạo việc làm cho gần 1,2 triệu lao động, đạt gần 80% kế hoạch năm. Văn hóa xã hội tiếp tục có chuyển biến, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, công tác đối ngoại đạt kết quả tích cực.
Những kết quả nêu trên tạo thêm thuận lợi để chúng ta phấn đấu đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ mà Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại phiên khai mạc kỳ họp.
Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, đất nước ta phải đương đầu với nhiều thách thức. Kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hội nghị các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) mới đây đã đưa ra đánh giá tiêu cực về kinh tế toàn cầu năm 2013 và cho rằng các giải pháp kích thích tăng trưởng gần đây không đủ để kinh tế thế giới nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng suy giảm. Nợ công vẫn là mối đe dọa sự tăng trưởng kinh tế không chỉ khu vực EU mà cả Nhật Bản, Hoa kỳ, có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào tình thế khó khăn hơn.
Ở trong nước, kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát chưa vững chắc, sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, tổng cầu giảm, tồn kho còn lớn, nợ xấu còn cao. Nếu không được giải quyết có hiệu quả, nền kinh tế sẽ rơi vào trạng thái trì trệ, tác động tiêu cực đến việc làm và đời sống nhân dân. Các lĩnh vực văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn nhiều vấn đề phải quan tâm và phải dành thêm nguồn lực để giải quyết. Cơn bão số 8 đã gây thiệt hại khá nặng nề cho một số tỉnh ven biển Bắc Bộ.
2. Bối cảnh nêu trên đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phát huy những lợi thế và kết quả đạt được, kiên định các giải pháp đúng và đang phát huy hiệu quả, đồng thời theo sát tình hình, chỉ đạo quyết liệt, hành động khẩn trương, kịp thời xử lý những khó khăn, thách thức mới, phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2012 và chuẩn bị tốt cho việc thực hiện nhiệm vụ năm 2013. Trong đó, tập trung giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Quản lý thu, chi ngân sách chặt chẽ, hiệu quả và triệt để thực hành tiết kiệm, loại bỏ các khoản chi chưa cấp bách, hạn chế đi công tác nước ngoài, giảm hội họp, dành thời gian chỉ đạo kiểm tra thực thi nhiệm vụ. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả; chủ động cân đối cung - cầu bảo đảm đủ các mặt hàng thiết yếu và các hàng hóa phục vụ Tết Nguyên đán, không để biến động lớn về thị trường, giá cả. Thực hiện tốt các chương trình an sinh xã hội và phúc lợi xã hội; khẩn trương trợ giúp đồng bào khắc phục hậu quả cơn bão vừa qua, sớm phục hồi sản xuất, ổn định đời sống. Chuẩn bị tốt các điều kiện để mọi người dân, nhất là những hộ nghèo, gia đình chính sách và đồng bào ở những vùng bị thiên tai đón tết vui tươi lành mạnh, an toàn, tiết kiệm.
VỀ CHỈ ĐẠO ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013
Chính phủ sẽ khẩn trương triển khai thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ và giải pháp nêu trong Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013. Kiên trì các giải pháp tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát; tạo đột phá trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và bảo đảm tăng trưởng. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thiết thực, cụ thể; đặc biệt là tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong tổ chức thực hiện. Chủ động làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, tạo đồng thuận và quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ năm 2013. Theo tinh thần đó, Chính phủ sẽ tập trung vào các nhiệm vụ sau:
I. GIẢI QUYẾT HÀNG TỒN KHO, XỬ LÝ NỢ XẤU, THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO DOANH NGHIỆP, THÚC ĐẨY SẢN XUẤT KINH DOANH PHÁT TRIỂN
Tồn kho cao, nợ xấu lớn trong điều kiện tổng cầu giảm đang là những nút thắt trong nền kinh tế. Nhiều đại biểu đã bày tỏ lo lắng về tình trạng này. Chính phủ nhận thức rõ điều đó. Nghị quyết 13 năm 2012 của Chính phủ, tuy có những tác động tích cực nhưng chưa đủ mức, cần có những giải pháp mạnh hơn cả về cơ chế chính sách và nguồn lực theo quan điểm là trong giới hạn của tổng nguồn, phải phân bổ và phân kỳ đầu tư hợp lý nhất để nền kinh tế vượt qua sức ỳ, ra khỏi khó khăn, tạo đà đi lên. Chính phủ sẽ tập trung vào các giải pháp sau:
1. Về giải quyết hàng tồn kho
(1) Tăng nhanh tổng cầu của nền kinh tế. Mở rộng tín dụng cho sản xuất và tiêu dùng, tăng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Cùng với việc đẩy mạnh giải ngân các công trình trong kế hoạch đầu tư năm 2012, sẽ phân bổ ngay vốn và đẩy nhanh tiến độ các dự án trong kế hoạch 2013, tập trung cho những dự án tạo sức lan toả lớn, những dự án thuộc chương trình xây dựng nông thôn mới, nhà ở xã hội, ký túc xá học sinh sinh viên. Thực hiện chủ trương hỗ trợ xi măng, sắt thép cho việc cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình giao thông, thủy lợi ở nông thôn, nhà ở cho hộ nghèo... cùng với việc huy động sự đóng góp của nhân dân trên địa bàn. Tỷ lệ hỗ trợ từ ngân sách phụ thuộc vào điều kiện của từng địa phương. Giải pháp này nhiều địa phương đã và đang thực hiện mang lại kết quả tốt, cần được nhân rộng.
Triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 2013, trong đó, điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 1,05 triệu đồng lên 1,15 triệu đồng, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công tăng bằng tỷ lệ tăng lương tối thiểu từ ngày 01/7/2013, đồng thời tìm mọi giải pháp cân đối nguồn để khi có điều kiện tiếp tục tăng lương theo sát lộ trình cải cách, ưu tiên các đối tượng chính sách, người có thu nhập thấp, nhằm giảm bớt khó khăn, cải thiện đời sống và kích cầu tiêu dùng.
(2) Hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Chính phủ sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến bán hàng, coi trọng bán hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa, đưa hàng Việt về nông thôn. Để bảo đảm hiệu quả cho chương trình này, phải xây dựng tiêu chí hỗ trợ có tính đến kết quả đầu ra. Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết tiêu thụ sản phẩm sản xuất trong nước.
Quản lý chặt việc buôn bán qua biên giới. Tập trung chỉ đạo các lực lượng chức năng ngăn chặn có hiệu quả nạn buôn lậu dưới mọi hình thức, nhất là từ nay đến dịp Tết Nguyên đán. Xử lý nghiêm tình trạng nhập khẩu và sản xuất kinh doanh các mặt hàng ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, gây ô nhiễm môi trường và có nguy cơ lan truyền dịch bệnh. Xử lý nghiêm các địa phương, đơn vị, cá nhân vì lợi ích cục bộ mà dung túng, bao che buôn lậu và buông lỏng kiểm soát hoạt động buôn bán qua biên giới.
(3) Giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành và tiêu thụ sản phẩm.
Tiếp tục hạ lãi suất tín dụng phù hợp với mức giảm của lạm phát. Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận tín dụng. Ban hành cơ chế mới về bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực hiện khoanh nợ hoặc bảo lãnh cho những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả nhưng đang gặp khó khăn tạm thời. Trong khi chưa bỏ được quy định về trần lãi suất huy động, tiếp tục mở rộng việc áp trần lãi suất cho vay đối với một số sản phẩm và khu vực ưu tiên. Tăng hạn mức tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn và cho hộ nông dân vay tín chấp; phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân ở nông thôn trong việc bảo lãnh cho vay và thu hồi nợ.
Thực hiện các biện pháp nuôi dưỡng nguồn thu, tạo khả năng tăng thu về sau. Xem xét áp dụng các biện pháp về thuế, phí và các gói hỗ trợ ngay trong nửa đầu năm với mức độ lớn hơn, thời gian dài hơn để giảm nhẹ gánh nặng cho doanh nghiệp.
Đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính (thủ tục hải quan, thuế, tiếp cận đất đai, tín dụng, đầu tư, đăng ký kinh doanh...) để tiết kiệm thời gian, giảm chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Trên cơ sở những thực tiễn tốt nhất đã đạt được ở những địa phương, đơn vị trong từng lĩnh vực quản lý, lấy đó làm tiêu chuẩn áp dụng chung cho toàn ngành, toàn quốc và công bố công khai để mọi người biết và giám sát thực hiện.
Cả ba nhóm giải pháp nêu trên đều cần có nguồn lực tài chính, đòi hỏi phải tăng cường công tác chống thất thu và điều đặc biệt quan trọng là triệt để thực hành tiết kiệm. Chính phủ sẽ quy định chặt chẽ hơn việc tiết kiệm chi tiêu Ngân sách năm 2013.
2. Về xử lý nợ xấu
Từ nửa cuối năm 2011, nợ xấu tại các tổ chức tín dụng có xu hướng tăng nhanh. Theo kết quả kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu tại thời điểm thanh tra là 8,82% tổng mức tín dụng của nền kinh tế, tương đương khoảng 250 nghìn tỷ, trong đó 73% số nợ có tài sản bảo đảm, các tổ chức tín dụng cũng đã trích lập được khoảng 75 nghìn tỷ đồng quỹ dự phòng rủi ro.
Nợ xấu đang cản trở tín dụng không đến được doanh nghiệp, là nguy cơ làm mất ổn định hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính. Xử lý nợ xấu là yêu cầu cấp bách, cần thực hiện khẩn trương, quyết liệt nhưng phải có lộ trình phù hợp, quy trình chặt chẽ và theo hướng: chỉ đạo tập trung, hành động theo nhiều tuyến, bằng nhiều giải pháp, kể cả việc giải phóng hàng tồn kho, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài các giải pháp về hỗ trợ doanh nghiệp như đã trình bày, Chính phủ đang chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây:
(1) Rà soát đánh giá lại chính xác tổng mức nợ xấu; tiến hành phân loại các khoản nợ xấu (theo loại hình doanh nghiệp, tổ chức tín dụng và theo các loại tài sản bảo đảm, nợ xấu trong bất động sản, nợ xây dựng cơ bản...).
(2) Các tổ chức tín dụng phải chủ động cơ cấu lại nợ với các hình thức thích hợp, trích lập đủ quỹ dự phòng rủi ro và sử dụng quỹ này để xử lý nợ xấu. Tổ chức tín dụng nào chưa trích lập đủ thì phải dùng các nguồn phù hợp, kể cả vốn điều lệ để bù đắp và buộc phải giảm mức tăng trưởng tín dụng để bảo đảm an toàn.
(3) Yêu cầu tổ chức tín dụng (chủ nợ) và doanh nghiệp có nợ phải khẩn trương xử lý tài sản bảo đảm để thanh lý nợ xấu.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mặc dù phải sử dụng nhiều giải pháp để xử lý nợ xấu nhưng không thể không có vai trò của Nhà nước. Chính phủ đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng phương án thành lập công ty mua bán nợ, ban hành các văn bản pháp lý làm cơ sở cho việc xử lý nợ xấu, xác định rõ cơ chế hoạt động của công ty này phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và có tham khảo thông lệ quốc tế.
Một trong những trọng tâm cần tập trung xử lý là nợ đọng xây dựng cơ bản từ vốn ngân sách. Hiện nay, tổng số nợ đọng xây dựng cơ bản khoảng 90 nghìn tỷ đồng; trong đó, nợ các dự án đã hoàn thành khoảng 20 nghìn tỷ, nợ các dự án chuyển tiếp gần 70 nghìn tỷ đồng. Phần lớn các khoản nợ đọng xây dựng cơ bản là ở các địa phương. Tình hình này có nguyên nhân từ việc phân cấp đầu tư; nhiều dự án do địa phương quyết định, phê duyệt trong khi trung ương chịu trách nhiệm cân đối nguồn vốn. Thực tế, các địa phương đều mong muốn đẩy nhanh xây dựng hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, doanh nghiệp được tham gia xây dựng dự án đã rất tích cực, nhiều trường hợp chủ động ứng vốn thi công công trình trong khi nguồn vốn cân đối có hạn. Đây cũng là bất cập về cơ chế chính sách, có trách nhiệm của cả Trung ương và địa phương. Chính phủ đã yêu cầu các địa phương lập phương án cụ thể để khẩn trương xử lý nợ đọng trong xây dựng cơ bản thuộc các dự án do địa phương quyết định và đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản trong cả nước.
Với các giải pháp đồng bộ, phấn đấu đưa mức nợ xấu về khoảng 3-4% vào cuối năm 2015.
3. Về tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản
Bất động sản, nhất là nhà ở là một loại hàng tồn kho đặc biệt, liên quan trực tiếp và đang chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số nợ xấu. Do quản lý yếu kém, thiếu quy hoạch, kế hoạch phù hợp nên thị trường nhà ở phát triển quá nóng, cơ cấu không hợp lý và tình trạng đầu cơ làm dư thừa nguồn cung, nhất là loại nhà ở cao cấp, vượt quá khả năng của phần lớn người có nhu cầu mua nhà để ở. Trong bối cảnh phải thực hiện chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt, tổng cầu giảm, làm thị trường bất động sản bị đóng băng, kéo theo tồn kho lớn về vật liệu xây dựng. Cùng với các biện pháp tăng tổng cầu, trong đó có cầu về nhà ở và vật liệu xây dựng, xử lý nợ đọng trong xây dựng cơ bản như đã trình bày ở trên, Thủ tướng Chính phủ đã giao một Phó Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo Bộ Xây dựng, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Tài chính... phối hợp với các địa phương đánh giá đúng thực trạng và có phương án cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, đồng thời chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau:
(1) Mở rộng tín dụng cho vay mua nhà, khuyến khích các tổ chức tín dụng liên kết với chủ dự án để cung cấp tín dụng dài hạn cho người có nhu cầu mua nhà để ở. Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố tìm nguồn vốn phù hợp để mua lại các khu nhà làm nhà tái định cư, nhà ở xã hội, ký túc xá sinh viên... Một số địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện giải pháp này và đạt kết quả bước đầu.
(2) Rà soát các dự án đã giao để xác định các dự án tạm dừng, dự án được tiếp tục triển khai, các dự án cần điều chỉnh cơ cấu sản phẩm cho phù hợp và yêu cầu các chủ đầu tư nghiêm túc thực hiện. Cho phép phân nhỏ các căn hộ phù hợp với quy hoạch; khuyến khích hạ giá bán để đáp ứng nhu cầu và khả năng thanh toán của nhiều đối tượng dân cư.
(3) Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tăng thêm nhu cầu văn phòng làm việc, căn hộ cho thuê; nghiên cứu điều chỉnh chính sách bán nhà cho các đối tượng là người nước ngoài có dự án đầu tư, kinh doanh lâu dài tại Việt Nam.
(4) Tăng cường quản lý nhà nước về thị trường bất động sản. Rà soát lại quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà ở phù hợp với điều kiện và chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương. Triển khai thực hiện có hiệu quả chiến lược về nhà ở đã ban hành, đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội.
Chính phủ sẽ tiếp tục đề xuất bổ sung hoàn thiện hệ thống luật pháp về quản lý đô thị và kinh doanh bất động sản. Nghiên cứu xây dựng các định chế tài chính mới để hỗ trợ thị trường như Quỹ tiết kiệm nhà ở, Quỹ đầu tư bất động sản... Hoàn thiện các chính sách thuế để hạn chế tình trạng đầu cơ bất động sản và khuyến khích sử dụng tiết kiệm đất.
Giải quyết hàng tồn kho, xử lý nợ xấu và tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản có liên quan chặt chẽ với nhau và phải được tiến hành đồng thời với các giải pháp đồng bộ. Chính phủ coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.
II. VỀ CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
Đây cũng là nội dung mà nhiều đại biểu quan tâm, chất vấn, trong đó nhấn mạnh ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, gắn tái cơ cấu kinh tế với đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược… Chính phủ xin tiếp thu để chỉ đạo thực hiện và báo cáo giải trình thêm như sau:
Chính phủ đã xây dựng Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, sẽ được thực hiện đồng bộ trong tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước.
Ngay từ năm 2012 Chính phủ đã tập trung triển khai 3 lĩnh vực: tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty; cơ cấu lại các tổ chức tín dụng.
1. Về tái cơ cấu đầu tư
Vừa qua, chúng ta đã triển khai nhiều giải pháp và đã có một số kết quả bước đầu. Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, trình Quốc hội sửa Luật ngân sách nhà nước, ban hành Luật đầu tư công. Triển khai thực hiện kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa XI và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ và kiểm soát chặt chẽ đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư công theo hướng giảm dần tỷ trọng và nâng cao hiệu quả; kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải. Hoàn thiện cơ chế nhằm tăng cường trách nhiệm của chủ đầu tư, nhà thầu và tư vấn giám sát trong việc bảo đảm chất lượng và tiến độ công trình, xử lý nghiêm các vi phạm. Đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư, thực hiện cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn; kiên quyết tập trung vốn cho các công trình dự án quan trọng, cấp thiết, sớm hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng để phát huy hiệu quả. Ưu tiên bố trí vốn cho các công trình đã hoàn thành, các công trình cần thiết phải hoàn thành trong năm 2013 và vốn đối ứng cho các dự án ODA. Các dự án, công trình khởi công mới phải được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm thủ tục đầu tư, xác định rõ nguồn vốn. Đối với các dự án đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ nhưng không có nguồn để bố trí tiếp thì chuyển sang hình thức đầu tư khác phù hợp hoặc phải tạm đình chỉ.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư, trước hết là đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ theo hướng bảo đảm quản lý thống nhất của Trung ương về mục tiêu và danh mục các chương trình, dự án theo quy hoạch. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch làm căn cứ để xây dựng các chương trình, kế hoạch đầu tư trung và dài hạn.
Nhu cầu vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế, xã hội nước ta trong những năm tới là rất lớn trong khi nguồn vốn Ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nguồn ODA ưu đãi đang giảm dần khi nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Vì vậy, cùng với việc cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư công phải có giải pháp thu hút được nhiều vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước. Tiếp tục nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA làm cơ sở cho việc vận động tài trợ; chỉ đạo sửa đổi cơ chế đầu tư theo các hình thức BT, BOT, PPP và các chính sách phí, thuế, giải phóng mặt bằng; tiến hành tổng kết 25 năm thu hút đầu tư nước ngoài... để có cơ chế, chính sách hấp dẫn hơn, nhằm thu hút được nhiều nguồn vốn ngoài Nhà nước tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2. Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
Tháng 7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Thực hiện nghiêm túc Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XI về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nước, Chính phủ đang triển khai các nội dung sau đây:
Rà soát phân loại doanh nghiệp để quyết định tỷ lệ tham gia vốn của Nhà nước; điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, cung cấp hàng hoá dịch vụ công thiết yếu, công nghiệp nền tảng, các ngành, lĩnh vực có công nghệ cao, sức lan toả lớn.
Tiếp tục sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo các phương án đã được phê duyệt; thực hiện lộ trình thoái vốn nhà nước ở những công ty cổ phần mà Nhà nước không cần chi phối.
Tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước theo các loại hình công ty phù hợp; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến; thực hiện minh bạch công khai trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu chí của công ty niêm yết. Đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Thực hiện cơ chế đặt hàng của Nhà nước và hạch toán theo cơ chế thị trường đối với doanh nghiệp trong việc thực hiện chức năng hỗ trợ điều tiết vĩ mô và thực hiện an sinh xã hội.
Cùng với việc chấm dứt thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế, Chính phủ đang chỉ đạo rà soát, đánh giá lại các tập đoàn, yêu cầu các tập đoàn thực hiện thoái vốn trong các ngành nghề không phải là ngành nghề kinh doanh chính. Khẩn trương phê duyệt đề án tái cơ cấu của từng tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Trong khi tiến hành nghiên cứu thấu đáo phương án thành lập một cơ quan thực hiện thống nhất chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục để ban hành nghị định mới về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, trong đó quy định cụ thể quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ quản lý ngành, Bộ tổng hợp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng thành viên và người đại diện phần vốn nhà nước.
Chính phủ sẽ xây dựng và ban hành nghị định riêng về điều lệ tổ chức hoạt động cho từng tập đoàn kinh tế và một số tổng công ty lớn. Tổng kết Luật doanh nghiệp năm 2005, xây dựng khuôn khổ pháp luật phù hợp để quản lý có hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng và sự lãnh đạo của tổ chức đảng trong doanh nghiệp; đổi mới công tác cán bộ, qui trình, cơ chế tuyển chọn, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước.
3. Về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng với lộ trình cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu hình thành hệ thống tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình; hoạt động an toàn, hiệu quả, có khả năng cạnh tranh cao; vận hành theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong giai đoạn 2011-2015, tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính, tăng cường năng lực, cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tái cơ cấu đối với từng loại hình tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quĩ tín dụng nhân dân, tổ chức tín dụng nước ngoài...) phù hợp với tình trạng tài chính của từng tổ chức tín dụng.
Đã thực hiện giám sát hoạt động, thanh tra toàn diện và kiểm toán bắt buộc đối với 9 ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém; yêu cầu từng ngân hàng này tự xây dựng và triển khai phương án cơ cấu lại theo đúng pháp luật và lộ trình cụ thể. Đến nay, đã sắp xếp được 6 ngân hàng và hoạt động của các ngân hàng này đã dần ổn định, quyền lợi của người gửi tiền được bảo đảm, Nhà nước không bỏ tiền bù đắp cho các tổ chức tín dụng này.
Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện các tiêu chí quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng theo hướng tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế; tăng cường giám sát, kiểm tra hoạt động của các tổ chức tín dụng; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm an toàn hệ thống.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Tại kỳ họp này, nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước đã quan tâm nêu nhiều ý kiến về các vấn đề xã hội như giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng, lãng phí; thực hành tiết kiệm; bảo đảm trật tự an toàn xã hội... Những lĩnh vực này Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu và còn nhiều hạn chế, yếu kém. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục nỗ lực thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chiến lược phát triển, các chương trình mục tiêu quốc gia và các kế hoạch đã đề ra, khắc phục hạn chế yếu kém, tạo chuyển biến cụ thể trên từng lĩnh vực.
Nhiệm vụ sắp tới là rất nặng nề. Tiếp thu những ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ khẩn trương triển khai và phấn đấu thực hiện các Nghị quyết của Đảng và của Quốc hội. Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội tăng cường giám sát và trên cương vị công tác của mình, mỗi vị đại biểu Quốc hội có những đóng góp thiết thực cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.
Xin cảm ơn Quốc hội.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng