Điều chỉnh giá điện từ 9/11/2023: Tác động như thế nào đến khách hàng sử dụng điện?
(PetroTimes) - Đó là một trong những thông tin được quan tâm tại buổi trao đổi thông tin về việc điều chỉnh giá bán lẻ điện do Bộ Công Thương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam phối hợp tổ chức, chiều 9/11.
Việc điều chỉnh giá điện được tính toán cẩn trọng
Theo Quyết định số 1416/QĐ-EVN, từ ngày 9/11, điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân là 2.006,79 đồng/kWh (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). Việc điều chỉnh giá điện lần này đã được EVN tính toán cẩn trọng nhằm hạn chế thấp nhất tác động đến nền kinh tế và đời sống người dân.
Chia sẻ về cơ sở điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân, ông Nguyễn Đình Phước – Kế toán trưởng EVN cho biết, việc điều chỉnh giá điện lần này dựa trên cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn. Cụ thể, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, yêu cầu: “áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng” và “xoá bỏ mọi rào cản để bảo đảm giá năng lượng minh bạch do thị trường quyết định”.
Việc điều chỉnh giá bán lẻ của EVN cũng được thực hiện theo Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ Quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân.
Tại Khoản 5, Điều 3 của Quyết định 24/2017/QĐ-TTg quy định: “Thời gian điều chỉnh giá bán điện bình quân tối thiểu là 6 tháng kể từ lần điều chỉnh giá điện gần nhất” và Khoản 2, Điều 3: “Trong năm, giá bán điện bình quân được xem xét điều chỉnh khi thông số đầu vào cơ bản trong khâu phát điện biến động so với thông số đã được sử dụng để xác định giá bán điện bình quân hiện hành”.
Toàn cảnh cuộc họp trao đổi thông tin - Ảnh: Ngọc Tuấn |
Cũng theo ông Nguyễn Đình Phước, năm 2023, chi phí đầu vào cho sản xuất điện tăng, tiếp tục ảnh hưởng đến chi phí của EVN. Cụ thể, do ảnh hưởng của El Nino, sản lượng thủy điện - nguồn điện giá rẻ - giảm gần 17 tỷ kWh so với năm 2022; sản lượng các nhiệt điện than, khí, dầu huy động tăng.
Trong khi đó, giá các loại nhiên liệu đầu vào cho các nhà máy điện tăng và vẫn duy trì ở mức cao. Giá than nhập khẩu NewC Index dự kiến năm 2023 tăng 186% so với 2020 và 25% so với năm 2021; giá than trộn của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam dự kiến tăng bình quân từ 29,6% - 46,0% so với năm 2021; giá than trộn của Tổng công ty Đông Bắc tăng bình quân từ 40,6% - 49,8% so với năm 2021. Giá dầu thô Brent dự kiến tăng 100% so với giá bình quân năm 2020 và tăng 18% so với năm 2021. Đặc biệt, tỷ giá ngoại tệ năm 2023 cũng tăng mạnh, dự kiến tăng 4% so với năm 2021. Các yếu tố này đã ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí mua điện và giá thành điện của EVN.
Ông Nguyễn Đình Phước cũng cho hay, trong năm 2022 và 2023, EVN đã triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tiết kiệm chi phí như: Tiết kiệm chi phí thường xuyên 15%; chi phí sửa chữa lớn cắt giảm ở mức rất cao; tiết kiệm tối đa trong công tác quản trị…
Các hộ nghèo, gia đình chính sách ảnh hưởng không đáng kể
Theo số liệu đánh giá của Tổng Cục thống kê, việc điều chỉnh giá điện lần này dự kiến làm chỉ số giá tiêu dùng CPI năm 2023 chỉ tăng khoảng 0,035%.
Về cơ bản, việc điều chỉnh giá điện lần này bảo đảm các hộ nghèo, các gia đình chính sách bị ảnh hưởng ở mức không đáng kể. Theo số liệu thống kê, năm 2022 cả nước có trên 1,27 triệu hộ nghèo, hộ chính sách xã hội được hỗ trợ tiền điện theo chủ trương của Chính phủ. Cụ thể, hộ nghèo được hỗ trợ với mức hỗ trợ hàng tháng tương đương số điện sử dụng 30kWh/hộ/tháng; hộ chính sách xã hội có lượng điện sử dụng không quá 50 kWh/tháng được hỗ trợ tương đương số lượng điện sử dụng 30kWh/hộ/tháng.
Bên cạnh đó, dựa trên số liệu thống kê về khách hàng sử dụng điện trong 9 tháng đầu năm 2023, EVN cũng đã có tính toán cụ thể về tác động tới từng đối tượng khách hàng sử dụng điện.
Cụ thể, với khách hàng sử dụng điện sinh hoạt, sau khi điều chỉnh giá, mỗi hộ tiêu thụ điện dưới 50kWh/tháng, số tiền điện tăng thêm bình quân là khoảng 3.900 đồng/hộ; các hộ tiêu thụ từ 51-100 kWh/tháng, tiền điện tăng thêm bình quân là khoảng 7.900 đồng/hộ; các hộ tiêu thụ từ 101-200kWh, số tiền điện tăng thêm bình quân là khoảng 17.200 đồng/hộ (đây là nhóm khách hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số khách hàng sử dụng điện sinh hoạt (chiếm 34,08%); các hộ tiêu thụ từ 201-300kWh, số tiền điện tăng thêm bình quân là khoảng 28.900 đồng/hộ; các hộ tiêu thụ từ 301-400kWh, tiền điện tăng thêm bình quân là khoảng 42.000 đồng/hộ; các hộ tiêu thụ từ 401kWh trở lên, tiền điện tăng thêm bình quân là 55.600 đồng/hộ.
Với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tác động của việc điều chỉnh giá điện tùy thuộc vào hành vi sử dụng điện của khách hàng và tỷ lệ sử dụng điện trong tổng chi phí giá thành của doanh nghiệp.
Cụ thể, khách hàng kinh doanh dịch vụ (có 547 nghìn khách hàng), sau khi thay đổi giá, trung bình mỗi tháng sẽ trả thêm tiền điện là 230.000 đồng/tháng; khách hàng sản xuất (có 1.909 nghìn khách hàng), trung bình mỗi tháng sẽ trả thêm tiền điện là 432.000 đồng/tháng; Khách hàng hành chính sự nghiệp (có 681 nghìn khách hàng), trung bình mỗi tháng sẽ trả thêm tiền điện là 90.000 đồng/tháng.
Nghi Viên