Phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam: Kỳ vọng và thách thức
(PetroTimes) - “Tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, đối với bất kỳ ngành công nghiệp mới nào cũng sẽ có những khó khăn nhất định. Chúng ta không thể thấy khó mà bỏ qua cơ hội”. Đó là quan điểm của bà Ngô Thị Tố Nhiên – Giám đốc Điều hành Tổ chức sáng kiến về chuyển dịch năng lượng Việt Nam (VIET) khi trao đổi với Petrotimes xung quanh chủ đề phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam.
Bà Ngô Thị Tố Nhiên – Giám đốc Điều hành Tổ chức sáng kiến về chuyển dịch năng lượng Việt Nam (VIET). |
PV: Bà có thể cho biết, tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi (ĐGNK) của Việt Nam?
Bà Ngô Thị Tố Nhiên: Với hơn 3.200 km bờ biển và tổng diện tích biển khoảng 1 triệu km2, Việt Nam có tiềm năng lớn về phát triển ĐGNK. Vận tốc gió trung bình năm ở độ cao 100m có thể lên tới 9 – 10m/s tại nhiều vùng biển Việt Nam. Chỉ tính riêng các vùng biển xung quanh đảo Phú Quý hay Bạch Long Vĩ, công suất đặt có thể lên tới 38GW mỗi vùng. Theo số liệu của Chương trình hỗ trợ quản lý năng lượng của Ngân hàng thế giới (WB-ESMAP), ước tính tiềm năng kỹ thuật của ĐGNK của Việt Nam chân đế cố định lên tới 261GW và ĐGNK chân đế nổi lên tới 214GW.
PV: Hiện nay, về mặt pháp lý, liệu đã đủ cơ sở triển khai các dự án đầu tư chưa, thưa bà? Nhà nước cần bổ sung chính sách gì để khuyến khích phát triển nguồn năng lượng này?
Bà Ngô Thị Tố Nhiên: Năm 2019, Việt Nam có một dự án ĐGNK được cấp phép khảo sát, đó là Dự án Kê Gà, tỉnh Bình Thuận. Việt Nam đang hoàn thiện các cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Để triển khai ĐGNK , Việt Nam cần xác định mục tiêu công suất năng lượng cho từng cụm dự án trong quy hoạch phát triển điện lực quốc gia, xây dựng khung pháp lý và các tiêu chí đánh giá ảnh hưởng đến môi trường – xã hội. Đồng thời, thiết lập các cơ sở pháp lý cấp 4 loại giấy phép: Giấy phép thuê đáy biển để khảo sát; Giấy phép thuê mặt biển; Giấy phép quyền đấu nối vào hệ thống điện quốc gia; Giấy phép truyền tải vào hệ thống điện quốc gia.
Việc xét duyệt các dự án ĐGNK trong quy hoạch cần có một cơ quan nhà nước phụ trách điều phối thực hiện, tránh tình trạng chồng chéo quy trình và kéo dài thời gian chuẩn bị thủ tục của các nhà đầu tư. Do đó, cần thành lập nhóm chuyên trách ĐGNK, trực thuộc Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (đã được thành lập theo Quyết định 203/QĐ-TTg, ngày 6/2/2020 của Thủ tướng).
Ngoài ra, phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Bộ, ngành liên quan, đảm bảo có được chính sách thống nhất về quy hoạch phát triển và quản lý biển, cảng biển, quy hoạch phát triển điện lực và vận hành hệ thống lưới điện, thủ tục đầu tư và các công cụ tài chính, điện gió ngoài khơi mới có thể thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong trong nước và quốc tế.
Nghị quyết số 55- NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị đã định hướng cụ thể việc xây dựng chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi, gắn với thực hiện chiến lược biển Việt Nam. Với chính sách về giá mua điện là 9,8 UScents/kWh, mục tiêu phát triển ĐGNK cần sớm được chính thức đưa vào Quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia 8, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Ảnh minh họa |
PV: Theo bà, những thách thức khi triển khai dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam là gì?
Bà Ngô Thị Tố Nhiên: Cơ hội lớn nhưng thách thức cũng không nhỏ khi triển khai các dự án điện gió ngoài khơi Việt Nam. Có thể kể đến một loạt thách thức về hệ thống cơ sở pháp lý/quy hoạch liên quan, các vấn đề về nối lưới và vận hành hệ thống, việc kết hợp hài hòa giữa điện gió ngoài khơi và các hoạt động khác trên biển, chuỗi công nghiệp phụ trợ và đặc biệt là cơ chế đầu tư và hợp đồng mua bán điện. Đây là công việc cần sự điều phối nhịp nhàng giữa các bên tham gia sao cho vừa có lợi về kinh tế, vừa nâng cao uy tín quốc gia.
PV: Trên thế giới, những quốc gia nào đã dầu tư phát triển mạnh nguồn năng lượng này?
Bà Ngô Thị Tố Nhiên: Với mức tăng trưởng gần 30% hàng năm, ĐGNK đã trở thành một trong hai nguồn điện hàng đầu được khai thác mỗi năm trên thế giới. Hiện nay, đã có khoảng 150 dự án tại 19 quốc gia. Dự kiến, năm 2021, trên 100 dự án được bổ sung vào công suất đặt hàng năm. Trong đó, những quốc gia có các dự án quy mô lớn gồm: Hoa Kỳ, Úc, Đài Loan, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Niu Di-lân và Thổ Nhĩ Kỳ.
PV: Nhiều chuyên gia cho rằng, hiện nay, việc phát triển ĐGNK tại Việt Nam chưa thực sự phù hợp vì giá vật tư thiết bị còn cao; nhà thầu xây lắp, sửa chữa, bảo dưỡng chưa có nhiều kinh nghiệm. Bà đánh giá thế nào về quan điểm này?
Bà Ngô Thị Tố Nhiên: Các dự án điện gió được triển khai đồng loạt trong thời gian qua đã tạo ra hiệu ứng tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam. Việc thực hiện các công trình xây lắp, trang thiết bị cơ khí, vận tải siêu trường siêu trọng và hàng hải đã tạo ra hàng vạn việc làm, kích thích dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước, góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực, tạo động lực phát triển kinh tế- xã hội, phát triển kinh tế xanh. Thực tế, đã có nhiều doanh nghiệp tham gia các dự án điện gió đất liền và gần bờ. Cùng với năng lực và kinh nghiệm triển khai các công trình biển và hệ thống logistics phụ trợ của ngành Dầu khí, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở phát triển ĐGNK gắn liền với dịch vụ Logistic trong những năm tới.
Để có thể tận dụng nguồn lực trong nước và bắt kịp xu thế phát triển của ĐGNK, chúng tôi đã đề xuất một số giải pháp sau: Việt Nam cần nghiên cứu và tổng hợp kinh nghiệm khảo sát, xây dựng, phát triển và quản lý ĐGNK và chuỗi cung ứng từ các nước phát triển; khảo sát và đánh giá năng lực hiện có và tiềm năng đáp ứng việc thiết lập chuỗi cung ứng trong nước; nghiên cứu các quy ước quốc tế và thiết lập cơ chế pháp lý tương thích, tăng khả năng tiếp cận nguồn tài chính quốc tế.
Thiết lập cảng năng lượng nên được cân nhắc như là bước khởi động, tạo sân chơi cho các tập đoàn đa quốc gia và công ty trong nước cùng tham gia, từng bước hình thành chuỗi cung ứng. Đơn vị quản lý cảng năng lượng sẽ làm đầu mối điều phối việc cấp phép nhập khẩu công nghệ, thiết bị, phát triển các nhà máy, lắp đặt. Các hoạt động điều phối này sẽ góp phần phát triển chuỗi cung ứng một cách hiệu quả, đồng bộ và giảm chi phí đầu tư… Cùng với đó, Việt Nam cũng cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế với một số nước thành công trong việc phát triển chuỗi cung ứng dịch vụ ngoài khơi như Hà Lan và quy hoạch phát triển ĐGNK như Vương Quốc Anh, Đan Mạch.
PV: Xin cảm ơn bà!
Đức Dũng (Thực hiện)