Sa tạng chậu - Bệnh lý gây nhiều mặc cảm cho phụ nữ
(PetroTimes) - Sa tạng chậu là tình trạng sa các cơ quan vùng đáy chậu, chủ yếu là qua âm đạo ở nữ giới. Đây là nguyên nhân dẫn đến các rối loạn đường tiểu, rối loạn tiêu hóa, rối loạn tình dục, mất thẩm mỹ vùng âm đạo gây nhiều phiền toái trong sinh hoạt cũng như ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người phụ nữ.
Cứu sống sản phụ nguy kịch do vỡ tử cung |
Cứu sống sản phụ chảy máu ồ ạt sau sinh |
Cứu sống sản phụ mang thai trong gan hiếm gặp |
Theo một nghiên cứu trên 27.342 người phụ nữ lớn tuổi ở Mỹ, trong 16.616 người còn tử cung thì có 14,2% người bị sa tử cung, 34,2% người bị sa bàng quang và 18,6% người bị sa trực tràng. Còn lại trong 10.727 người đã cắt tử cung, tỉ lệ sa bàng quang là 32,9%, sa trực tràng là 18,3%.
Tại Việt Nam chưa có số liệu thống kê về tỉ lệ mắc các bệnh lý về sa tạng chậu, tuy nhiên theo ghi nhận tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM (BV ĐHYD TP HCM), đây là bệnh lý rất thường gặp ở người phụ nữ đã sinh nở nhiều lần. Từ đầu năm 2019 đến nay, BV ĐHYD TP HCM tiếp nhận điều trị cho hơn 600 người bệnh có các bệnh lý về sa tạng chậu, trong đó số ca bệnh nặng cần phẫu thuật là hơn 100 ca. Đa số các trường hợp đến khám trong tình trạng bệnh đã trở nặng, gây nhiều khó khăn trong điều trị.
PGS.TS.BS Nguyễn Văn Ân tư vấn cho người bệnh |
PGS.TS.BS Nguyễn Văn Ân - Trưởng khoa Niệu học chức năng BV ĐHYD TP HCM cho biết, bệnh lý sa tạng chậu chia làm 3 nhóm: sa khoang trước (gồm sa niệu đạo và bàng quang), sa khoang giữa (sa tử cung hay mỏm cụt âm đạo nếu đã cắt tử cung) và sa khoang sau (túi sa trực tràng, sa trực tràng). Nguyên nhân gây ra tình trạng này xuất phát từ sự tổn thương, suy yếu các cấu trúc cơ và dây chằng nâng đỡ sàn chậu. Ở giai đoạn nhẹ, người bệnh sẽ bị són tiểu (tiểu không kiểm soát) làm hạn chế giao tiếp xã hội. Còn khi bệnh diễn tiến đến giai đoạn nặng, tình trạng sa ra ngoài âm đạo sẽ gây viêm nhiễm thành âm đạo và cổ tử cung, khó đi tiêu, tiểu, nhiều trường hợp chèn ép niệu quản gây thận ứ nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người bệnh, đến sinh hoạt vợ chồng và sinh hoạt hàng ngày.
Điển hình, BV ĐHYD TP HCM tiếp nhận điều trị cho người bệnh L.T.O., 53 tuổi, ngụ tại TP HCM. Bà O. từng có 3 lần sinh con qua ngả âm đạo. Nửa năm nay, bà O. thấy rất khó chịu vùng hội âm (vùng nằm giữa hậu môn và phần ngoài bộ phận sinh dục), thường bị són tiểu kèm tiểu khó, tiểu gấp. Do đó, bà O. đến khám tại Khoa Niệu học chức năng BV ĐHYD TP HCM. Sau khi thăm khám, các bác sĩ xác định bà O. bị sa thành trước âm đạo (sa bàng quang) độ III, sa tử cung độ II, sa thành sau âm đạo độ I.
Sau đó, các bác sĩ đã tiến hành phẫu thuật cho người bệnh, nâng đỡ thành trước âm đạo để sửa chữa sa bàng quang, đồng thời sửa chữa sa tử cung. Một tháng sau phẫu thuật, bà O. hết khó chịu do khối sa chèn ép, không còn bị rối loạn chức năng tiểu, mọi sinh hoạt đều trở lại bình thường.
Theo PGS.TS.BS Nguyễn Văn Ân, sa tạng chậu là một bệnh lý phức tạp, có thể một hay nhiều cơ quan đáy chậu có thể cùng bị sa và sa ở nhiều mức độ khác nhau. Nhìn chung, ở mức độ nhẹ có thể điều trị bảo tồn và tập vật lý trị liệu sàn chậu. Còn ở mức độ nặng, người bệnh cần được phẫu thuật.
Nguyên nhân của sa tạng chậu chủ yếu do phụ nữ mang thai và sinh nở nhiều lần. Bên cạnh đó, tình trạng suy yếu, nhão cơ sàn chậu do mãn kinh, lớn tuổi, dinh dưỡng kém cũng góp phần gây ra sa tạng chậu. Nguyên nhân quan trọng khác là rối loạn chức năng của các cơ quan đáy chậu như tắc đường tiểu dưới, táo bón… Các triệu chứng điển hình của bệnh thường là đau vùng âm đạo, đau lưng dưới, tiểu không kiểm soát, tiểu khó, đi tiêu khó… Theo thời gian, diễn tiến bệnh thường sẽ ngày càng nặng hơn khiến người bệnh đối diện với nhiều nguy cơ biến chứng nguy hiểm.
PGS.TS.BS Nguyễn Văn Ân khuyến cáo, người phụ nữ biết mình mắc các bệnh về sa tạng chậu thường có tâm lý mặc cảm, ngại ngần dẫn đến việc tự chịu đựng, không chủ động thăm khám khiến bệnh ngày càng trầm trọng hơn. Với sự phát triển của y học hiện đại, ngày càng nhiều phương pháp đã được chứng minh về tính hiệu quả trong điều trị các bệnh lý sa tạng chậu. Do đó, ngay khi xuất hiện các triệu chứng, người bệnh nên các cơ sở y tế chuyên khoa để được chẩn đoán, tư vấn và điều trị kịp thời.
M.P