Bốn bài học từ cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979
Xa rời chính sách ngoại giao cân bằng; đánh giá không đúng đối thủ và thực lực của mình... là những sai lầm Việt Nam đã mắc phải.
Không chỉ là bài học lớn về vấn đề quân sự mà cuộc chiến biên giới phía Bắc (1979-1989) còn là bài học về chính trị, ngoại giao, Trung tướng Đặng Quân Thuỵ, nguyên chỉ huy mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang) đúc kết.
"Trong mọi trường hợp, chúng ta phải kết hợp hài hoà giữa quân sự với chính trị, ngoại giao, pháp lý", Tướng Thuỵ nhấn mạnh.
Trung tướng Đặng Quân Thuỵ. Ảnh: Gia Chính |
Phân tích thêm, GS Vũ Dương Ninh, nguyên Chủ nhiệm Khoa Quốc tế học Đại học KHXH&NV cho rằng, Việt Nam đã đánh giá không đúng về đối thủ, đồng minh và về chính mình. Niềm say sưa của người thắng trận sau 1975 dẫn tới sự nhìn nhận không chính xác về vị thế và thực lực của mình trên bàn cờ quốc tế.
Mỹ rút khỏi chiến tranh Việt Nam nhưng trên phạm vi thế giới vẫn là một siêu cường có tác động mạnh mẽ đến tình hình chung. Nhận thức rõ việc xác lập quan hệ bình thường với Mỹ nhưng những đòi hỏi về "hàn gắn vết thương chiến tranh" của Việt Nam không phù hợp với luật pháp Mỹ và động chạm đến lòng tự ái của người Mỹ nên cuối cùng để lỡ thời cơ. Cuộc đàm phán Việt - Mỹ tại Paris bế tắc vào giữa năm 1978. Trong khi đó, ngoại giao Mỹ - Trung lại thiết lập quan hệ chính thức từ 1/1/1979.
Sai lầm tiếp theo là lãnh đạo nước nhà đã xa rời chính sách cân bằng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghiêng hẳn về Liên Xô khiến cho giới cầm quyền Bắc Kinh lợi dụng tạo cớ gây chiến tranh biên giới.
"Nếu Việt Nam giữ được thế cân bằng theo khuôn mẫu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện trong những năm 60 thì bài toán thời cuộc có thể được giải theo một phương án khác", GS Ninh nêu.
"Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, nên cần xây dựng quan hệ hoà bình, hữu nghị. Nếu quan hệ căng thẳng, thậm chí xảy ra chiến tranh như năm 1979 thì tổn thất rất lớn cho cả hai nước về con người và của cải. Vì vậy cần duy trì các cuộc gặp cấp cao thường xuyên giữa hai nước, phát huy vai trò của ngoại giao nguyên thủ giúp quan hệ hai nước phát triển lành mạnh, ổn định, lâu dài", Đại tá Nguyễn Trọng Khiêm, nguyên phó hệ trưởng hệ Quốc tế, Học viện Quốc phòng nhấn mạnh.
Quân Trung Quốc vượt cầu phao xâm lược Việt Nam ở biên giới phía Bắc năm 1979. Ảnh tư liệu |
GS Đỗ Tiến Sâm (Viện nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) thì cho rằng, trong lịch sử, Việt Nam là quốc gia bị Trung Quốc xâm lược nhiều nhất trong số các nước láng giềng của họ. Chỉ trong vòng 10 năm từ 1979-1988, Trung Quốc đã hai lần dùng vũ lực xâm lược Việt Nam cả trên đất liền và trên biển. Vì vậy thời gian tới Việt Nam cần nghiên cứu để có biện pháp ứng phó với chiến lược "ba nhanh chóng" của Trung Quốc.
"Ba nhanh chóng" gồm nhanh chóng phát triển biên cương phía Bắc, nhanh chóng xây dựng cường quốc biển ở phía Đông, nhanh chóng kết nối chiến lược "vành đai, con đường" (BRI) với chiến lược phát triển của Lào và Campuchia ở phía Tây của Việt Nam.
"Trong bối cảnh mới, khi tình hình Biển Đông tiếp tục phức tạp, nguy cơ va chạm, đụng độ chưa được đẩy lùi thì việc nâng cao năng lực kiểm soát thực địa ở 21 đảo với 33 điểm đóng quân ở quần đảo Trường Sa là rất quan trọng", vị Giáo sư nói.
Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó viện trưởng Chiến lược, Bộ Quốc phòng lưu ý trong cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam không nên mắc mưu bị đẩy lên tuyến đầu chống Trung Quốc trên biển để rơi vào thế kẹt trong cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn.
Một bài học nữa là phải quốc tế hoá để giải quyết các mối xung đột; đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế.
Theo các chuyên gia, năm 1979, Việt Nam làm việc này chưa tốt. Vừa thống nhất đất nước Việt Nam đã bị quân Khmer Đỏ xâm phạm ở biên giới từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tấn công đảo Phú Quốc, chiếm đảo Thổ Chu. Ngày 30/4/1977, chúng tiến đánh 14 xã biên giới của tỉnh An Giang, mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đốt phá làng mạc, giết chết thường dân. Quân Pol Pot cũng tàn sát gần 2 triệu trên tổng số 8 triệu người dân Campuchia.
"Chúng ta đã đánh đuổi Khmer Đỏ ở biên giới Tây Nam, thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ, chính nghĩa. Và theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc đoàn kết thống nhất Campuchia mở cuộc phản công, giải phóng thủ đô Phnom Penh, cứu người dân Campuchia khỏi hoạ diệt chủng. Nhưng Việt Nam đã không làm cho thế giới biết nên bị vu là xâm lược, khiến đất nước bị thiệt hại khủng khiếp về ngoại giao, cả thế giới cô lập, tẩy chay", TS Sử học Ngô Vương Anh nói.
Bà mẹ Campuchia rót nước cho các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam. Ảnh tư liệu |
Đại tá Khiêm cũng cho rằng rất đáng buồn khi hàng chục nghìn chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã hy sinh ở Campuchia khi bảo vệ biên cương, làm nghĩa vụ quốc tế, nhưng dưới sự "lĩnh xướng" của Bắc Kinh, nhiều nước Đông Nam Á và đa số các nước phương Tây đã cùng lên án Việt Nam xâm lược Campuchia và cô lập Việt Nam.
"Phải làm cho thế giới hiểu mình, vì chỉ khi họ hiểu được đường lối đối ngoại yêu chuộng hoà bình, muốn làm bạn với tất cả các nước của Việt Nam thì họ mới ủng hộ chúng ta", ông Khiêm nói.
Cuối cùng, theo các chuyên gia, Việt Nam phải xây dựng đất nước giàu mạnh, có tiềm lực quân sự vững vàng, có khả năng tự bảo vệ mình. TS Vương Anh cho rằng tăng cường huy động nội lực ở mức tối đa cần song hành với việc cân bằng quan hệ với các quốc gia: "Chúng ta phải biết né đòn, tránh chỗ mạnh, có chiến lược đối ngoại thông minh", TS Anh nói.
GS Đỗ Tiến Sâm góp ý thêm, Việt Nam cần phát triển các sức mạnh mềm như lòng yêu chuộng hoà bình, tinh thần hoà hiếu và trách nhiệm trong quan hệ quốc tế, để Việt Nam trở thành điểm đến của những người yêu chuộng hoà bình, điểm gặp gỡ an toàn và lý tưởng cho lãnh đạo các nước mong muốn giải quyết điểm nóng và mưu cầu hoà bình.