Lao động trong doanh nghiệp FDI
Được & Mất
(PetroTimes) - Doanh nghiệp (DN) FDI đã và đang đóng góp quan trọng vào giải quyết việc làm. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, đến năm 2017, khoảng 14,6 nghìn doanh nghiệp FDI đang sử dụng hơn 3,6 triệu lao động, chiếm 26% tổng số lao động trong khu vực doanh nghiệp.
Bất ổn trong quan hệ lao động
Tính đến tháng 5/2018, cả nước còn hơn 25.691 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký gần 323 tỉ USD. Không chỉ tạo việc làm, khu vực FDI đã góp phần cải thiện chất lượng, năng suất lao động của Việt Nam... Đó là thông tin được đưa ra trong Hội thảo “Lao động trong khu vực DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - Thực trạng và giải pháp” vừa được tổ chức tại Hà Nội.
Theo đánh giá của ông Vũ Đại Thắng - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lao động trong các DN FDI tuy chiếm tỷ trọng thấp, nhưng hiệu quả sản xuất, kinh doanh khá cao. Tốc độ tăng việc làm của khu vực FDI luôn cao, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Không chỉ vậy, DN FDI cũng giúp năng suất lao động của Việt Nam dần được cải thiện, bình quân giai đoạn 2014-2016 tăng 5,5%/năm.
Bên cạnh đó, sự có mặt của DN FDI cũng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông thôn ra các thành phố, góp phần cải thiện nguồn nhân lực. Một đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề từng bước được hình thành và dần tiếp cận với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao, nâng cao đời sống...
Ảnh minh họa |
Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng, khu vực FDI đã và đang bộc lộ nhiều bất cập. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lắp ráp, gia công, tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam không cao; đóng góp ngân sách Nhà nước chưa tương xứng; một số DN FDI có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế hoặc vi phạm các quy định về xử lý môi trường…
Không những vậy, theo Trưởng ban Quan hệ lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Ngọ Duy Hiểu, tại thời điểm quý IV/2017, có 1,5% lao động làm việc cho DN FDI không có hợp đồng lao động. Ngoài ra, theo phản ánh từ cơ sở, để tránh nộp BHXH cho người lao động (NLĐ), một số chủ sử dụng lao động đã ký hợp đồng dịch vụ, tư vấn, cộng tác viên… với NLĐ, dù trên thực tế là tuyển vào làm các công việc thường xuyên. Các điều khoản trong hợp đồng lao động có tình trạng ghi chung chung, không cụ thể, khi có tranh chấp rất khó giải quyết.
Những vấn đề đó đã góp phần gây bất ổn trong quan hệ lao động trong khu vực FDI. Theo số liệu từ Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong năm 2017 và 5 tháng đầu năm 2018, tại 39/63 tỉnh, thành phố xảy ra 454 cuộc ngừng việc tập thể và đình công chủ yếu do nợ lương, không điều chỉnh lương tối thiểu, vi phạm thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, nợ BHXH, không đóng BHXH, điều kiện lao động khắc nghiệt, ban hành quy định trái pháp luật, đối xử thô bạo... Đồng thời, sự gia tăng lao động làm việc tại các DN FDI liên tục đặt ra nhiều vấn đề xã hội như nhà ở cho công nhân, y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng đô thị, giao thông…
Nâng cao chất lượng lao động
Có thể nói, sự hiện diện của DN FDI đã tạo ra áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, buộc các DN nội địa phải đổi mới, cải thiện năng suất lao động. Để nâng cao năng suất lao động từ DN FDI, Tiến sĩ Lê Văn Hùng (Viện Kinh tế Việt Nam) khuyến nghị: Việt Nam cần chú ý tới chất lượng của dòng vốn FDI thay vì số lượng. Trong giai đoạn tới, thu hút vốn FDI cần gắn chặt với chiến lược phát triển quốc gia, chỉ tập trung ưu tiên thu hút một số ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh theo từng vùng, đặc biệt ưu tiên những DN chế biến sâu, công nghệ cao, năng lượng mới để tạo hiệu ứng lan tỏa lớn đối với nền kinh tế trong dài hạn. Đồng thời, việc đào tạo của các trường đại học, trường nghề cần được nâng lên theo chuẩn chất lượng, gắn lý thuyết với thực hành.
Để cải thiện cả về chất và lượng lao động, ông Ngọ Duy Hiểu cho rằng, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, tạo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh về thị trường lao động, chính sách về nhà ở, đào tạo nghề và các chính sách xã hội khác có liên quan nhằm thắt chặt, hạn chế tình trạng DN sa thải NLĐ trên 35 tuổi; tổ chức tốt hệ thống thông tin thị trường lao động để giới thiệu và chắp nối việc làm ở thị trường trong nước với thị trường ngoài nước.
Ông Ngọ Duy Hiểu khuyến nghị: Chúng ta phải thiết kế chính sách tổng thể đối với NLĐ bị mất việc làm. Đặc biệt, phải có chính sách hỗ trợ lao động để ứng phó với các vấn đề xã hội nảy sinh từ quá trình thay đổi cơ cấu sản xuất, đổi mới công nghệ của DN. Cần hỗ trợ NLĐ về BHXH, BHYT và các hình thức khác để họ được bảo vệ tốt hơn.
Trong năm 2017 và 5 tháng đầu năm 2018, tại 39/63 tỉnh, thành phố xảy ra 454 cuộc ngừng việc tập thể và đình công chủ yếu do nợ lương, không điều chỉnh lương tối thiểu, nợ BHXH, không đóng BHXH, điều kiện lao động khắc nghiệt, đối xử thô bạo... |
K.An