Giá than lên đỉnh trong 6 năm và còn tăng cao
(PetroTimes) - Nhu cầu điện tăng mạnh, sớm hơn thường lệ do thời tiết châu Á đang nóng hơn bình thường đã đẩy giá than lên mức cao kỷ lục trong 6 năm qua.
Than nhiệt là loại than được sử dụng nhiều nhất trên thế giới, dùng cho các nhà máy nhiệt điện. Theo thống kê của TKV, giá than nhiệt trên thị trường Australia đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 2/2012 do thời tiết nóng ở khắp Bắc Á thúc đẩy hoạt động mua mạnh trước khi vào mùa nhu cầu tăng thường niên là mùa Hè.
Than Việt Nam xuất khẩu tại Quảng Ninh. |
Cụ thể, than nhiệt giao ngay tại cảng Newcastle (Australia) ngày 8/7 đạt 115,25 USD/tấn, cao nhất trong vòng hơn 6 năm. Giá than nhiệt đã tăng 130% kể từ năm 2016 khi chạm mức thấp kỷ lục 50 USD/tấn.
Giá than tăng do kinh tế tăng trưởng mạnh, nhất là ở châu Á, trong khi nguồn cung hạn hẹp vì một số mỏ than đóng cửa và việc phát triển những mỏ mới gặp khó do lo ngại về ô nhiễm môi trường và khí hậu nóng lên.
Nguồn cung từ các mỏ của khu vực Nam Mỹ bị gián đoạn cũng góp phần đẩy tăng giá than Newcastle, vì khách hàng buộc phải tìm mua than Australia để thay thế. Cảng Newcastle tắc nghẽn với hàng chục tàu đang chờ bốc xếp than lên. Khắp nơi ở châu Á đang dự trữ than. Nhu cầu từ khu vực Bắc Á tăng mạnh để chuẩn bị cho mùa Hè.
Nhập khẩu than của cả 4 nhà nhập khẩu hàng đầu châu Á đều tăng mạnh. Trung Quốc đã nhập khẩu 104,5 triệu tấn than qua đường biển trong 5 tháng đầu năm nay, tăng 10,2% tương đương 10,7 triệu tấn so với cùng kỳ năm 2017. Ấn Độ cũng đã mua 77,4 triệu tấn trong 5 tháng đầu năm nay, tăng 3,3% hay 2,5 triệu tấn so với cùng kỳ năm ngoái; trong khi Nhật Bản nhập 74,1 triệu tấn, tăng 2,4 triệu tấn; và Hàn Quốc nhập khẩu 51,7 triệu tấn, tăng 500.000 tấn. Tính chung cả 4 thị trường này đã tăng nhập khẩu 16,1 triệu tấn than qua đường biển trong 5 tháng đầu năm nay.
Tình hình nghiêm trọng hơn khi thiếu vắng nguồn cung mới để đáp ứng nhu cầu. Xuất khẩu từ 3 nhà cung cấp lớn nhất cho thị trường châu Á đều chỉ vững trong 5 tháng đầu năm nay. Cụ thể, Australia xuất khẩu 161,8 triệu tấn, tăng nhẹ so với 160,6 triệu tấn cùng kỳ năm ngoái; Indonesia xuất khẩu 167,7 triệu tấn, cũng chỉ tăng nhẹ so với 161,2 triệu tấn, còn Nam Phi vẫn giữ nguyên mức xuất khẩu ở 33,6 triệu tấn.
Như vậy, nhu cầu nhập khẩu tăng không thể được đáp ứng hết bởi các nhà xuất khẩu truyền thống, mà được bù đắp bởi Mỹ và Nga. Mỹ đã xuất khẩu 41,7 triệu tấn than trong 5 tháng đầu năm nay (trong đó 14,7 triệu tấn tới châu Á), tăng 14,9% so với 36,3 triệu tấn cùng kỳ năm 2017 (trong đó 21,1 triệu tấn tới châu Á). Tương tự, Nga cũng tăng xuất khẩu thêm 9,8% tương đương 7,1 triệu tấn, lên 79,8 triệu tấn, trong đó 33,2 triệu tấn tới châu Á (tăng 11,8%). Mặc dù vậy giá vẫn cao và không ngừng tăng thêm.
Việc các nguồn cung đẩy tăng sản lượng thêm không phải dễ dàng. Australia không thể tăng cung một cách nhanh chóng, Indonesia thì chủ trương cung cấp thêm than đá cho thị trường trong nước, còn Nam Phi bị hạn chế về cơ sở hạ tầng, chủ yếu là hệ thống đường sắt.
Do vậy, mặc dù chi phí vận chuyển từ Mỹ đắt đỏ nhưng khách hàng châu Á vẫn chấp nhận mua. Phần lớn than đá Mỹ xuất khẩu sang châu Á là loại sử dụng luyện thép, nhưng giá than nhiệt đã cao hơn 100 USD/tấn nên khả năng dòng chảy than Mỹ sẽ chảy nhiều sang hướng Đông, nhất là cho những khách hàng Đông Á.
Shane Stephan, Giám đốc điều hành của New Hope dự đoán giá than sẽ còn tiếp tục tăng cao hơn nữa trong thời gian tới.
PV