Về kiến nghị điều chỉnh thuế tài nguyên đối với than:
Cân nhắc kỹ trên tổng thể nền kinh tế
Theo Bộ Tài chính, mức thuế suất thuế tài nguyên quy định tại Nghị quyết 1084/2015/UBTVQH13 mới được ban hành nên cần có thời gian để tổng kết, đánh giá. Việc đề nghị thay đổi mức thuế suất cần được cân nhắc kỹ dựa trên tổng thể nền kinh tế.
Những năm gần đây, các loại thuế, phí trong sản xuất than liên tục tăng đã làm giá thành sản xuất than trong nước ngày càng tăng cao, giảm sức cạnh tranh so với than nhập khẩu. Nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác (2%) thì thuế tài nguyên đối với than hầm lò hiện nay khoảng 12%, than lộ thiên khoảng 14%, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như: Indonesia: xấp xỉ 3-7%; Trung Quốc: 0-4%...
Để nâng cao sức cạnh tranh của than sản xuất trong nước với than nhập khẩu, giảm sản lượng than tồn kho của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản (TKV) về mức độ hợp lý (khoảng 15-20%), góp phần giúp ngành than có đủ điều kiện tích lũy nguồn lực để phát triển, cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị xem xét điều chỉnh thuế tài nguyên về mức thấp nhất trong khung thuế suất thuế tài nguyên đã được ban hành.
Trả lời kiến nghị này, Bộ Tài chính cho biết, theo Luật Thuế tài nguyên, khung thuế suất thuế tài nguyên đối với các mặt hàng than là 4-20% và 6-20% và theo Nghị quyết 1084/2015/UBTVQH13 thì mức thuế suất thuế tài nguyên đối với các mặt hàng than là 10% và 12%, Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2016.
Việc xem xét sửa đổi mức thuế suất thuế tài nguyên thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, mức thuế suất thuế tài nguyên quy định tại Nghị quyết 1084/2015/UBTVQH13 mới được ban hành nên cần có thời gian để tổng kết, đánh giá. Mặt khác, việc đề nghị thay đổi mức thuế suất cần được cân nhắc kỹ trên tổng thể nền kinh tế.
Cũng theo Bộ Tài chính, mỗi quốc gia có quan điểm khác nhau về chính sách thuế đối với tài nguyên tùy thuộc vào điều kiện của từng nước. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia có thể thấy rằng, chính sách thuế đối với tài nguyên của các nước trên thế giới rất đa dạng và thường không theo một khuôn mẫu chung (Canada quy định mức cao nhất là 16%, Argentina 3%, Chile 14%, Myanmar 7,5%).
Mức thuế suất cụ thể đối với từng loại tài nguyên phụ thuộc vào tầm quan trọng của từng loại tài nguyên cũng như chính sách của quốc gia đó đối với việc bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước.
Theo Bộ Tài chính, tài nguyên (trong đó có than) là một trong những nguồn lực có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Chính sách thu hiện hành đối với tài nguyên (thuế, phí) đều được gắn với mục tiêu điều chỉnh riêng, là công cụ tài chính thể hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của tổ chức, cá nhân.
Mặt khác, các chính sách thu đối với tài nguyên trong thời gian qua được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ, giai đoạn về bảo vệ, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả.
Minh Châu