Ký ức Điện Biên của người lính quân báo
Dù 83 tuổi nhưng cụ Nguyễn Việt Sỹ (ở phường Quang Trung, TP. Vinh, Nghệ An) vẫn giữ được sự mẫn tiệp, tinh anh hiếm có. Trong kí ức của người lính quân báo của Đại đoàn 316, 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” ở lòng chảo Điện Biên Phủ dường như mới xảy ra hôm qua.
Sau 63 năm, những ngày khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn rõ như in trong ký ức của người lính quân báo Nguyễn Việt Sỹ. |
Năm 1952, chàng thanh niên 18 tuổi Nguyễn Việt Sỹ rời quê nhà Diễn Ngọc (Nghệ An) lên đường tòng quân cứu nước. “Mẹ không cho đi, tôi trốn nhà đi. Tối hôm đó, chị dâu nấu cho nồi cơm nếp mang theo” - ông kể.
Sau khi tham gia chiến dịch Tây Bắc, đơn vị ông Sỹ hành quân lên Điện Biên Phủ. Lòng chảo Điện Biên vẫn là một ẩn số đối với Bộ chỉ huy chiến dịch. “Cuối năm 1953, địch đổ quân xuống Điện Biên. Các cố vấn của ta nhận định, địch vừa đổ quân xuống, chưa kịp đào công sự, khả năng phòng ngự yếu nên cần đánh nhanh, thắng nhanh, nội trong 3 ngày 2 đêm là có thể giải quyết được sân bay Mường Thanh” - ông Nguyễn Việt Sỹ nhớ lại.
Tuy nhiên, trong quá trình tấn công vào tập đoàn cứ điểm này, ta phải chịu nhiều thiệt hại lớn về người, vũ khí và phương tiện chiến đấu, đặc biệt là chịu hậu quả nặng nề từ các trận pháo kích của đối phương. Căn cứ của địch, cách bố trí các trận địa pháo, sân bay Mường Thanh… là một ẩn số cần phải được làm rõ bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả các trận đánh của ta.
Bằng mắt thường, ông Sỹ cùng các đồng đội đã "đo" khoảng cách từ đỉnh Pú Hồng Mèo đến sân bay Mường Thanh, lập trận địa cối 82 ly để từ đó phát hiện ra các trận địa pháo của địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. |
Một tổ trinh sát 6 người thuộc Đại đội 926, Tiểu đoàn 249, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316 được cử làm nhiệm vụ này. “Chúng tôi trèo lên đỉnh núi Pú Hồng Mèo, dùng mắt thường để đo khoảng cách tới sân bay Mường Thanh, xác định các loại máy bay mà địch sử dụng như máy bay chở xăng, máy bay chở bom. Lần lượt mỗi người trèo lên cây đo 1 lần, sau đó thống nhất với nhau về khoảng cách. Theo đường chim bay, khoảng cách từ núi Pú Hồng Mèo đến sân bay Mường Thanh là 1.800m. Từ đỉnh Pú Hồng Mèo, chúng tôi có thể nắm quy luật thả dù của Pháp, nếu thả dù đỏ tức là thả tướng, dù xanh là thả lính, dù trắng là tiếp phẩm” - ông Sỹ kể.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ Thái Nguyên sang Điện Biên Phủ trực tiếp chỉ huy chiến dịch. Căn hầm Đại tướng được đào dưới chân núi Pú Hồng Mèo, trên đỉnh núi, một trận địa cối 82 ly được bày bố. Đêm Giao thừa năm 1954, từ đỉnh Pú Hồng Mèo, lần lượt 6 khẩu cối 82 ly khai hỏa về phía sân bay Mường Thanh, một số máy bay của địch bốc cháy dữ dội.
Ông Sỹ là người góp phần biên soạn cuốn sách "Điện Biên Phủ - Điểm hẹn" của Ban liên lạc chiến sỹ Điện Biên Phủ TP. Vinh (Nghệ An). |
Ngay lập tức, các đợt pháo kích của địch cấp tập bắn về trận địa cối 82 ly, 13 người hi sinh. Ông Nguyễn Việt Sỹ cũng bị thương. Quân ta bị thương vong nặng nề nhưng các trận địa pháo của địch bảo vệ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cũng bị lộ.
“Ngay chiều hôm sau (26/1/1954), Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổ chức cuộc họp ở hầm chỉ huy. Sau khi phân tích tình hình thực tế, Đại tướng quyết định chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đại tướng ra lệnh rút quân, kéo pháo ra, tổ chức xây dựng công sự kiên cố, đào hào bao vây tiêu hao sinh lực địch” - người lính già vẫn nhớ như in dù đã 63 năm trôi qua.
Tối ngày 6/5, khối bộc phá gần 1.000kg phát nổ dưới lòng đồi A1, phát lệnh tổng tiến công. Từ các chiến hào, quân ta tràn lên chiếm lĩnh trận địa trước sự chống cự quyết liệt của địch với sự hỗ trợ của đại liên, xe tăng, trọng pháo và máy bay ném bom.
Chiều 7/5, tướng Đờ Cát xin hàng, kết thúc gần 1 thế kỷ xâm lược nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. 17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm Đờ Cát nhưng phải đến sáng 8/5, đám tàn quân Pháp mới hoàn toàn bị quét sạch ở lòng chảo Điện Biên.
Những đóng góp của ông Sỹ cùng gia đình trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước được Đảng, Chính phủ và Nhà nước ghi nhận. |
Sau chiến dịch, ông Nguyễn Việt Sỹ tiếp tục công tác tại Quân khu 2. Năm 1961, ông chuyển ngành sang thương nghiệp châu Điện Biên Phủ. Năm 1964, ông chuyển công tác về Nghệ An, hoạt động trong ngành xây dựng cho đến khi nghỉ hưu.
“Điều day dứt lớn nhất cuộc đời tôi là ngày ra đi, tôi không chào mẹ được 1 câu. Đến khi chiến dịch thành công, trở về thì mẹ đã mất. Dân làng kể, vì thương nhớ tôi, mẹ dời từ xã Diễn Ngọc ra ngã ba Cầu Bùng (xã Diễn Kỷ, Diễn Châu) dựng một căn lán. Mỗi khi có đoàn quân đi qua, mẹ đứng đó gọi tên tôi từ đầu cho đến cuối hàng quân rồi thất vọng trở về. Năm 1953, mẹ tôi qua đời, dân làng đắp cho mẹ một ngôi mộ ngay ven đường. Sau này tôi đi tìm để đưa mẹ về với bố tôi, với tổ tiên nhưng mộ đã bị thất lạc không tìm được. Vì nghĩa nước, tôi không có gì ân hận nhưng là một người con, tôi đã không làm tròn đạo hiếu với mẹ” - đôi mắt của người lính già như phủ một lớp sương mờ.