ĐÀ trong ĐẬM ĐÀ nghĩa là gì?
Bạn đọc: Mục “Tiếng Việt” trên báo Văn nghệ số 31 (2945), thứ Bảy 30-7-2016, có đăng bài “Đậm đà” của một tác giả ký tên là Từ Nguyên (tr.19). Xin ông An Chi cho biết ý kiến của ông về bài này, đặc biệt là về mặt từ nguyên? Cảm ơn ông. Đào Nam Hà (Bạch Mai, Hà Nội)
Học giả An Chi: Trước nhất, xin nói rằng đây là một bài bình giảng ngắn chứ không phải một bài trực tiếp nói về từ nguyên còn chỗ có đụng đến từ nguyên của nó thì lại không đúng. Từ Nguyên viết:
“Còn ‘đà’ với hai lớp nghĩa chính (vì ‘đà’ còn có nghĩa là ‘màu đỏ’ - ‘áo đà’: áo màu đỏ): vật cứng ở dưới đỡ vật cứng khác cho chắc hoặc cho vật cứng khác trượt lên trên; và sức vươn lên theo hướng nhất định (theo Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2011, tr.442), thì trong cách kết hợp với ‘đậm’ (đứng sau, không bao giờ đứng trước) ‘đà’ cũng có hai lớp nghĩa - 1/ đỡ và cho đậm trượt trên nó trong một phạm vi nhất định, vượt quá sẽ không còn tác dụng; và 2/ từ đó tạo nên sức thuyết phục và hấp dẫn, cũng trong phạm vi đó, trở thành ‘đặc sản’ (các món ẩm thực) hoặc ‘đặc sắc’ (vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp con người, vẻ đẹp trong giao tiếp ứng xử, vẻ đẹp của các tác phẩm văn học và nghệ thuật, kể cả thời trang và thể thao), khiến khó quên và kích thích sự tiếp xúc để thưởng ngoạn”.
Trước đoạn này, ngay câu đầu tiên, Từ Nguyên đã khẳng định: “tiếng đôi ‘đậm đà’ (cũng có nơi dùng ‘đặm đà’), là một từ thuần Việt”. Chúng tôi xin nói ngay rằng danh từ “đà”, mà nghĩa đã được tác giả lấy ở Từ điển tiếng Việt của NXB Đà Nẵng 2011 là một từ Việt gốc Hán hiển nhiên, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [柁], mà âm Hán Việt hữu quan cũng là … “đà” vì thiết âm của nó là “đường hà thiết” [唐何切], như đã cho trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993). “Đường hà”, nói lái lại là “ĐÀ hường”. Vậy âm Hán Việt của chữ [柁] là “đà”, không thể chối cãi vào đâu được. Ta có thể vào Hanosoft 3.0 mà gõ “đà” thì sẽ thấy chữ [柁]. Từ điển Hán - Việt của Viện Ngôn ngữ học (VKHXHVN) do Phan Văn Các chủ biên cũng phiên
[柁] là “đà” và đối dịch là xà nhà, xà ngang. Từ điển Hán Việt của Trần Văn Chánh (Nxb Trẻ, 1999) cũng phiên và dịch y chang. Còn Từ điển tiếng Việt của Nxb Đà Nẵng 2011 mà Từ Nguyên đã dẫn thì lại giảng nghĩa của từ “đà” một cách không minh xác. Cứ như lời giảng đó thì đá táng, tức những khối đá vuông hay tròn, thường dày trên dưới 10cm, dùng để kê chân cột gỗ, cũng là “đà”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng rõ và đúng hơn. “Đà’ là “xà ngang (thường vuông hay bản) để chịu sức nặng đè xuống”; còn nghĩa rộng là “cây tròn dài lót dưới vật nặng để kéo lăn cho nhẹ”.
Nhưng dù cho lời giảng có như thế nào thì “đà” trong “đậm đà” cũng không phải là cái vật mà từ điển của NXB Đà Nẵng hay của Lê Văn Đức đã nói đến. Lý do là nếu quan niệm “đậm đà” là một cấu trúc “tính từ + danh từ” như Từ Nguyên đã phân tích thì sự tương thích ngữ nghĩa ở đây sẽ rất… chệch choạc. Đó là ta còn chưa nói đến chuyện Từ Nguyên hoàn toàn sai về ngữ pháp và ngữ nghĩa khi khẳng định rằng “đà” có hai lớp nghĩa chính là “màu đỏ” và “vật cứng…”. Với “lớp” nghĩa trước (đỏ) thì “đà” là tính từ còn với “lớp” nghĩa sau (vật cứng …) thì đó là danh từ nên việc chơi “2 trong 1” (“đà” vừa là tính từ vừa là danh từ) ở đây là chuyện tuyệt đối không được phép. Nếu cứ phớt lờ, thậm chí chà đạp lên quy tắc ngôn ngữ thì sự bình giảng rất ít có giá trị, nếu không nói là không có.
Vậy thì rốt cuộc, “đà” trong “đậm đà” thuộc từ loại nào và có nghĩa là gì? Xin thưa, đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [大], mà âm Hán Việt hiện hành là “đại”, có nghĩa là to, lớn. Ngay cả nhiều người không thạo chữ Hán cũng có thể biết đây là chữ “đại”. Nhưng chắc cũng ít có người để ý rằng chữ này còn có âm “đạ/đà” nữa. Quảng vận và Tập vận (đều ở phần “Khứ thanh, Cá đệ tam thập bát”) đã cho thiết âm của nó là: “đường tá thiết” [唐佐切], tức là ĐẠ, cùng âm với chữ [馱] (mà Quảng vận lại viết
[馬+犬] thay vì [馬+大] như Tập vận và đa số từ điển tiếng Hán hiện hành). Cả Quảng vận (Vận hạ bình, Ca đệ thất) lẫn Tập vận (Bình thanh tam, Qua đệ bát) còn cho âm của chữ “đạ” [馱] này là ĐÀ nữa: “Đường hà thiết” [唐何切]. Nếu ta lại chú ý thêm [馱] là một chữ hình thanh mà thanh phù là [大] thì ta cũng nên thấy thêm rằng hai chữ [馱] và [大] tất đã có lúc đồng âm. Mà [馱] đọc thành ĐÀ thì ĐÀ tất cũng là âm của [大]. Còn “đạ” [大] cũng đọc thành “đà” thì cũng giống như “đại” có biến thể ngữ âm là “đài” trong “dây đài” là dây lớn đối với “dây tiếu” là dây nhỏ của đàn nguyệt. Thực ra thì trong lĩnh vực Hán Việt, hiện tượng “đại/đài ↔ đạ/đà” không phải là trường hợp duy nhất vì về mối quan hệ AI ↔ A, ta còn có:
“dã” [野] ↔ “dại” trong ‘cỏ dại”;
“ma” [摩,磨] trong “ma sát” ↔ “mài” trong “mài giũa”;
“nga” [蛾] trong “nga mi” ↔ “ngài” trong “mày ngài”;
“nhai” [涯] trong “hải giác thiên nhai” cũng đọc thành “nha”.
Vậy thì “đà” trong “đậm đà” có nghĩa là gì? Trước nhất, xin nói về nghĩa của từ “đậm”. Đây không phải là một từ chuyên chỉ về màu sắc, như có thể có người lầm tưởng. Có lẽ vì cũng nghĩ như vậy nên Tầm Nguyên mới cho rằng, đi chung với nó, “đà” còn có nghĩa hiếm là “màu đỏ”. Trong các cấu trúc như: đậm người, đậm nét, đậm hương, mực đậm, rét đậm, thua đậm, sâu đậm, tô đậm, v.v..., thì cái nét nghĩa khái quát nhất của “đậm” là “đạt đến mức độ cao của một tính chất hoặc một sự việc nhất định”. Còn “đà” thì có nghĩa là gì? Như đã nói, đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [大]. Ngoài những nghĩa quen thuộc, thông thường từng biết, nó cũng có nghĩa giống như “đậm”, là “đạt đến mức độ cao của một tính chất hoặc một sự việc nhất định”, như: – “đại cát”, “đại hảo” là rất tốt; – “đại hồng” là đỏ sẫm; – “thiên dĩ kinh đại bạch liễu” là trời đã sáng bạch rồi; – “đại xuất huyết” là chảy rất nhiều máu; – “đại công (vô tư)” là chí công (vô tư); – “đại hàn” là rét đậm (một trong 24 tiết của năm); v.v...
Vì cùng một trường nghĩa như đã phân tích ở trên nên “đà” cặp kè với “đậm” thành cấu trúc đẳng lập “đậm đà” âu cũng là chuyện thường tình.
A.C