Triển vọng mới cho năng lượng tái tạo
Ngày 25-11-2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 2068/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt là chiến lược). Với hàng loạt cơ chế, chính sách ưu tiên và mang nhiều tính đột phá, chiến lược được kỳ vọng sẽ tạo ra lực đẩy mạnh mẽ cho năng lượng tái tạo.
Mục tiêu lớn
Được xem là một trong những thành tố quan trọng trong việc giải bài toán cung ứng đủ điện cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, những năm qua, Đảng, Chính phủ đã có nhiều chủ trương để phát triển năng lượng tái tạo. Và theo chiến lược, trong những năm tới, Việt Nam sẽ phát triển thủy điện truyền thống, góp phần vào phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương, góp phần cung cấp nguồn điện tại chỗ, nâng cao an toàn cung cấp điện. Mục tiêu sản xuất từ nguồn thủy điện theo đó sẽ tăng từ khoảng 56 tỉ kWh năm 2015 lên gần 90 tỉ kWh vào năm 2020 và đạt khoảng 96 tỉ kWh từ năm 2030. Riêng thủy điện tích năng nhằm thực hiện nhiệm vụ dự trữ, điều chỉnh nhu cầu trong hệ thống điện, góp phần nâng cao độ linh hoạt, hiệu quả trong vận hành hệ thống điện. Công suất nguồn thủy điện tích năng đến năm 2030 đạt khoảng 2.400MW, năm 2050 đạt khoảng 8.000MW.
Về nguồn năng lượng sinh khối, sẽ nâng tỷ lệ sử dụng phế thải của các cây công nghiệp, nông nghiệp cho mục đích năng lượng từ 45% năm 2015 lên 50% năm 2020, khoảng 60% năm 2030 và khoảng 70% vào năm 2050. Nâng tỷ lệ xử lý chất thải chăn nuôi cho mục đích năng lượng (khí sinh học) từ 5% năm 2015 lên khoảng 10% năm 2020, khoảng 50% vào năm 2030, đến năm 2050 hầu hết chất thải chăn nuôi được xử lý. Nâng tỷ lệ xử lý chất thải thành phố cho mục đích năng lượng từ mức không đáng kể hiện nay lên 30% vào năm 2020, khoảng 70% vào năm 2030 và hầu hết được tận dụng cho mục đích năng lượng vào năm 2050. Theo đó, tổng năng lượng sinh khối được sử dụng tăng từ 14,4 triệu TOE năm 2015, lên khoảng 16,2 triệu TOE vào năm 2020; khoảng 32,2 triệu TOE vào năm 2030 và 62,5 triệu TOE vào năm 2050.
Về nguồn điện gió, mục tiêu, sản lượng điện sản xuất từ nguồn điện gió sẽ tăng từ khoảng 180 triệu kWh năm 2015 lên khoảng 2,5 tỉ kWh vào năm 2020, khoảng 16 tỉ kWh vào năm 2030 và khoảng 53 tỉ kWh vào năm 2050. Đưa tỷ lệ điện năng sản xuất từ nguồn điện gió trong tổng sản lượng điện sản xuất từ mức không đáng kể hiện nay lên đạt khoảng 1,0% vào năm 2020, khoảng 2,7% vào năm 2030 và khoảng 5,0% vào năm 2050.
Và cuối cùng là nguồn năng lượng mặt trời, trước mắt là để cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia và khu vực biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa chưa thể cấp điện từ nguồn điện lưới quốc gia. Kỳ vọng điện năng sản xuất từ năng lượng mặt trời tăng từ khoảng 10 triệu kWh năm 2015 lên khoảng 1,4 tỉ kWh vào năm 2020, khoảng 35,4 tỉ kWh vào năm 2030 và khoảng 210 tỉ kWh vào năm 2050. Đưa tỷ lệ điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng mặt trời trong tổng sản lượng điện sản xuất từ mức không đáng kể hiện nay lên đạt khoảng 0,5% vào năm 2020, khoảng 6% vào năm 2030 và khoảng 20% vào năm 2050. Đặc biệt, phát triển các thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời để cung cấp nhiệt cho các hộ gia đình; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Nhiều chính sách ưu đãi
Như đã đề cập ở trên, tiềm năng và mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo được Chính phủ xác định là rất lớn. Tuy nhiên, để cụ thể hóa những nội dung này, Việt Nam cần khuyến khích, huy động mọi nguồn lực từ xã hội và người dân để tăng cường khả năng tiếp cận nguồn năng lượng hiện đại, bền vững, tin cậy với giá cả hợp lý. Đẩy mạnh phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, tăng nguồn cung cấp năng lượng trong nước, từng bước gia tăng tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng quốc gia nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Trao đổi với phóng viên Báo Năng lượng Mới xung quanh vấn đề này, Phó chủ tịch Hội Điện lực Việt Nam Trần Đình Long cho hay: “Với chiến lược được Thủ tướng Chính phủ thông qua, tôi cho rằng, vấn đề quyết định nằm ở chỗ là phải làm rõ mỗi kWh điện năng từ năng lượng tái tạo sẽ được trợ giá cụ thể bao nhiêu cent. Có như thế mới giải quyết được. Chứ hiện nay chỉ trợ giá 1 cent/kWh cho điện gió thì vẫn rất khó để mà thu hút, hấp dẫn các nhà đầu tư. Chúng ta phải quy định rõ, làm rõ ra, điện gió thì mỗi kWh trợ giá bao nhiêu, tương tự với điện từ năng lượng sinh khối, mặt trời... cũng phải như vậy”.
Điện gió Bạc Liêu |
Cũng theo ông Trần Đình Long thì những “nút thắt” này đã phần nào được giải quyết khi chiến lược có quy định giá bán điện được phù hợp với các điều kiện của các khu vực khác nhau và các đặc điểm của công nghệ phát điện từ các nguồn năng lượng tái tạo khác nhau, theo nguyên tắc giúp thúc đẩy sự phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, bảo đảm nhà đầu tư thu hồi được chi phí và có lợi nhuận hợp lý; giá bán điện được điều chỉnh kịp thời, phù hợp với sự phát triển của các công nghệ sử dụng nguồn năng lượng tái tạo... Và điểm được cho rằng đột phá là các đơn vị điện lực có trách nhiệm mua toàn bộ điện năng được sản xuất từ việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo nối lưới thuộc địa bàn do đơn vị mình quản lý.
Ngoài ra, chi phí mua điện của các dự án phát điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo hạch toán vào giá thành điện của đơn vị điện lực, được tính toán và đưa đầy đủ trong cơ cấu giá bán lẻ điện và thu hồi qua doanh thu bán điện. Chiến lược cũng xác định rõ, các dự án điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất điện được ưu tiên đấu nối với hệ thống điện quốc gia. Chi phí đấu nối và các chi phí khác có liên quan phát sinh hợp lý của các đơn vị lưới điện (đơn vị truyền tải điện và phân phối điện) do mua điện được sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo được tính trong chi phí truyền tải, phân phối điện của đơn vị lưới điện.
Đối với hệ thống điện độc lập sử dụng nguồn điện độc lập sản xuất điện từ nguồn năng lượng tái tạo, chủ đầu tư xây dựng đề án giá điện và xác định tổng mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước trình bộ, ngành trực tiếp liên quan thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tổng mức hỗ trợ được trích từ Quỹ Phát triển năng lượng bền vững.
Về thuế nhập khẩu, các dự án phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án; hàng hóa nhập khẩu là nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để phục vụ sản xuất của dự án theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Về thuế thu nhập doanh nghiệp, sẽ miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo được thực hiện như đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành.
Về đất đai, các dự án sẽ được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của pháp luật hiện hành áp dụng đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư.
Ngọc Thọ