“Chạy” ghế Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
Chiến dịch vận động chức Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc (TTK LHQ) đã được khởi động từ ngay thời điểm này, như Foreign Policy 14/11/2014 cho biết, dù cuộc bầu cử chọn người thay thế ông Ban Ki-moon còn gần một năm rưỡi nữa mới được tổ chức. Nhìn lại hậu trường chiến dịch vận động ghế TTK LHQ sẽ giúp thấy một cuộc chiến khác của các siêu cường…
Năng lượng Mới số 377
Bài 1: Lịch sử cho thấy gì?
Nhất định phải có sự đồng thuận của nhóm P-5
Trong thực tế, ghế TTK LHQ là sự dàn xếp giữa “ngũ cường” thành viên thường trực và lịch sử từng cho thấy luôn xảy ra đấm đá quyết liệt trong tiến trình bổ nhiệm TTK LHQ... Theo Times of London, chiến dịch vận động đưa ông Ban Ki-moon lên ghế TTK LHQ thể hiện ở nhiều hình thức, từ việc Hàn Quốc hứa viện trợ châu Phi hàng triệu USD đến nhiều thỏa ước thương mại với châu Âu (và thậm chí tặng một cây đại dương cầm cho Peru). Tháng 2/2006, ông Ban Ki-moon chính thức loan bố tranh cử TTK LHQ. Một tháng sau, Hàn Quốc thông báo họ tăng gấp ba viện trợ cho châu Phi (100 triệu USD) vào trước năm 2008. Seoul cũng đóng góp vài chục ngàn USD cho Hội nghị thượng đỉnh Liên minh châu Phi 2006 tổ chức tại Gambia vào tháng 7 - vào thời điểm mà ông Ban Ki-moon tuyên bố năm 2006 là “năm châu Phi” đối với Hàn Quốc. Một trong những đối tượng nhận tài trợ là Tanzania (có chân trong Hội đồng Bảo an - UNSC). Tháng 5/2006, ông Ban Ki-moon kinh lý đến Tanzania với lời hứa viện trợ 18 triệu USD cho chương trình giáo dục cũng như cho dự án cầu đường tại tây Tanzania (từ 1991-2003, Hàn Quốc viện trợ Tanzania tổng cộng 4,7 triệu USD).
Chiến dịch vận động bắt đầu có kết quả: tháng 9/2006, Elly Matango (Đại sứ Tanzania tại Tokyo và Seoul) nói rằng Chính phủ Tanzania quyết định ủng hộ ông Ban Ki-moon trong cuộc chạy đua ghế TTK LHQ. Tháng 9/2006, cùng Tổng thống Roh Moo-hyun, Ngoại trưởng Ban Ki-moon cũng dẫn phái đoàn ngoại giao - doanh nghiệp Hàn Quốc rầm rộ đến Hy Lạp lần đầu tiên kể từ năm 1961. Chuyến kinh lý hẳn sẽ ít bị dòm ngó và săm soi nếu Hy Lạp lúc đó không giữ ghế chủ tịch UNSC. Ngoài Tanzania, Ghana là quốc gia châu Phi thứ hai được viện trợ đáng kể và Ghana cũng là thành viên UNSC.
Boutros-Ghali - người đã bị Mỹ chặn đứng tranh cử nhiệm kỳ hai
Trên Washington Post, cựu Đại sứ Mỹ tại LHQ, Richard Holbrooke viết rằng, chẳng người nào không được đồng ý từ Washington lẫn Bắc Kinh mà có thể lên được ghế TTK LHQ. Phát biểu này cho thấy, dù vận động tốn kém thế nào mà không được ủng hộ từ các nước thành viên thường trực UNSC thì cũng có khả năng “xôi hỏng bỏng không”. Trong quyển The United Nations - International Organization and World Politics (trang 125-132), nhóm tác giả Lawrence Ziring, Robert Riggs và Jack Plano đã nêu vài trường hợp cụ thể. Năm 1950, khi nhiệm kỳ thứ nhất của Trygve Lie sắp kết thúc, Liên Xô khăng khăng phủ quyết ứng cử viên Lester Pearson (Canada) và Paul-Henri Spaak (Bỉ) trong khi Mỹ thề bác bỏ bất kỳ ai khác ngoài Trygve Lie. Vấn đề biến thành cuộc khủng hoảng dẫn đến bế tắc khi chẳng ai nhượng bộ ai. Cuối cùng, người ta phải nghĩ đến giải pháp kéo dài thêm ba năm cho nhiệm kỳ Trygve Lie...
Đấm đá trong UNSC
Trong United Nations - The First Fifty Years (trang 153-155), tác giả Stanley Meisler kể thêm rằng, tiến trình chọn người kế nhiệm Dag Hammarskjold năm 1961 thậm chí còn lâm vào tình thế khủng hoảng nghiêm trọng hơn. Không đồng ý bất kỳ ứng cử viên nào, Liên Xô đề xuất mô hình “bộ tam” - ba ghế TTK LHQ đại diện cho thế giới tư bản, thế giới cộng sản và thế giới thứ ba. Lãnh đạo Liên Xô Nikita Khruschev cho rằng “bài học Hammarskjold” đã quá đủ cho Moscow, khi Hammarskjold tỏ ra không trung lập và thiên vị đối với phe tư bản. Thế cho nên để công bằng, ghế TTK LHQ không chỉ thuộc một người mà phải ba nhân vật đại diện ba thế giới. Washington tất nhiên bác bỏ và các nước đang phát triển cũng không ủng hộ ý kiến Khruschev mà đòi ghế TTK LHQ cho riêng họ.
Cuộc khủng hoảng bước sang giai đoạn hai khi Moscow nảy thêm đề xuất mới rằng, cho dù ai được bầu làm TTK LHQ thì nhân vật đó vẫn phải có nhóm cố vấn đến từ ba thế giới như kể ở trên. Washington đồng ý nhưng bế tắc tiếp nối bế tắc khi người ta không thống nhất được số cố vấn cho TTK LHQ (có một đại sứ đề nghị 15 cố vấn). Còn nữa, phần ứng cử viên, hai nhân vật nổi cộm bấy giờ là Đại sứ Mongi Slim (Tusinia) và Đại sứ Miến Điện U Thant. Tuy nhiên, Liên Xô đánh giá Mongi Slim thân phương Tây; Israel cho rằng ông là đồng minh của những kẻ thù mình; trong khi Pháp vẫn còn hận Tusinia vụ đụng độ kinh hoàng tại cảng Bizerte (Tusinia) vào đầu thập niên 60 của thế kỷ trước khiến Pháp phải “bỏ của chạy lấy người”. Với U Thant, Pháp cũng chẳng thiện cảm bởi ông từng là Chủ tịch ủy ban Á - Phi bàn về tiến trình độc lập cho Algeria - thuộc địa Pháp (một nhà ngoại giao Pháp thậm chí dè bỉu rằng U Thant quá… lùn và dốt đặc tiếng Pháp; khi biết chuyện, U Thant xỏ lại khi nói rằng ông dù sao đi nữa cũng còn cao hơn Napoléon và tất nhiên không dốt đặc tiếng Anh như “vị vua bên Pháp”).
Năm 1981, UNSC lại bế tắc hơn 6 tuần trong tiến trình bầu TTK LHQ. Trung Quốc phủ quyết Kurt Waldheim tranh nhiệm kỳ ba trong khi Mỹ cản trở ứng cử viên Salim A. Salim (Tanzania). Cuối cùng, Waldheim lẫn Salim đều rút lui và Javier Pérez de Cuéllar được đề cử trong vòng bỏ phiếu chính thức đầu tiên từ danh sách 9 ứng cử viên thuộc các nước thế giới thứ ba... Cần nói thêm, trong lịch sử bầu TTK LHQ, yếu tố quốc gia trung lập và ứng cử viên thuộc nước không nặng ký về ảnh hưởng chính trị thế giới được xem như một trong những chọn lựa hàng đầu (tất nhiên chưa kể tài năng, trình độ và kinh nghiệm ngoại giao của ứng cử viên).
Điều này thể hiện rõ ở các đời TTK LHQ đầu tiên: Trygve Lie (Na Uy); Dag Hammarskjold (Thụy Điển); U Thant (Miến Điện; nay là Myanmar); Kurt Waldheim (Áo); Javier Pérez de Cuéllar (Peru); Boutros Boutros-Ghali (Ai Cập). Riêng trường hợp Boutros Boutros-Ghali, yếu tố địa lý còn có một ý nghĩa nhất định, ở thời điểm mà các nước châu Phi liên tục đòi một gương mặt đại diện cho ghế TTK LHQ. Ý kiến trên được ủng hộ và cổ xúy trong chiến dịch tuyên truyền rầm rộ từ Phong trào không liên kết (NAM), nơi khẳng định họ sẽ không bỏ phiếu cho bất kỳ ứng cử viên TTK LHQ nào trừ đại diện Lục địa đen tại vòng bầu chọn cuối cùng trong Đại hội đồng. Trong khi đó, Mỹ, Anh và Liên Xô không thật sự quan tâm quan điểm “quota khu vực” đối với ghế TTK LHQ. Vấn đề được họ đặt nặng hơn là liệu Boutros Boutros-Ghali có thể gồng nổi trách nhiệm nặng nề ở bối cảnh thế giới xảy ra quá nhiều biến động phức tạp giai đoạn hậu Chiến tranh lạnh hay không (dù Boutros-Ghali là nhà ngoại giao kinh nghiệm; tốt nghiệp tiến sĩ luật quốc tế Đại học Paris)...
Washington và Boutros-Ghali
Với tiến trình tái bầu TTK LHQ, vấn đề tất nhiên không còn nằm ở yếu tố khu vực địa lý mà cái chính được quan tâm bây giờ là sự nhìn lại khả năng TTK LHQ cũng như quan điểm của ông đối với các sự kiện xảy ra trong nhiệm kỳ trước. Kofi Annan đã không gặp khó khăn gì trong mùa tái tranh cử cực kỳ trơn tru nhưng người tiền nhiệm Boutros-Ghali từng bị Mỹ hạ bệ thẳng thừng. Trong quyển Madam Secretary - A memoir (trang 207-210), cựu Ngoại trưởng Mỹ Madeleine Albright đã kể lại việc mình thay mặt Washington chặn đứng Boutros-Ghali như thế nào.
Bà Albraight viết: “Ngồi tại bàn làm việc ở New York, tôi đọc mỗi ngày những xung đột mới, các vụ giết người, sự phẫn nộ và vô số lời đe dọa mà phe này dành cho phe kia. Tôi biết khắp nơi đều trông chờ LHQ và UNSC để tìm giải pháp. Chúng tôi không có thời giờ để thở. Tất cả đều khẩn cấp và chúng tôi ra quyết định dựa vào thông tin tốt nhất có được mỗi ngày, chịu ảnh hưởng từ quyết định của hôm trước, tuần trước và năm trước… Trong khi đó, xung đột quan điểm giữa Mỹ và LHQ ngày càng lớn. Tôi quyết định hành động. Năm 1996, tôi thực hiện điều này bằng cách ngăn Boutros Boutros-Ghali tham gia tái tranh cử TTK LHQ nhiệm kỳ hai. Bất đồng giữa Washington và Boutros-Ghali mỗi lúc mỗi nghiêm trọng, từ vấn đề Somalia đến giải pháp cho Rwanda. Với tư cách đại sứ thường trực LHQ, trước cuộc chiến Boutros-Ghali nhằm vào Mỹ, tôi khó có thể thuyết phục Quốc hội Mỹ tiếp tục ủng hộ các chương trình nghị sự LHQ. Điều này không phải không quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh phe Cộng hòa thời điểm đó kiểm soát hoàn toàn Quốc hội, khống chế tất cả vấn đề liên quan LHQ...
“Điều này có nghĩa Washington sẽ tiến hành một cuộc giao chiến trên mặt trận ngoại giao. Chúng tôi có lợi thế. Với tư cách thành viên thường trực UNSC, chúng tôi có thể bỏ phiếu phủ quyết nhưng điều này đem lại nhiều rủi ro. Pháp - cũng là thành viên thường trực UNSC - chắc chắn chống lại chúng tôi. Washington sẽ bị buộc tội độc đoán và món nợ mà Mỹ còn thiếu LHQ sẽ được hất vào mặt chúng tôi. Không có dấu hiệu Boutros-Ghali tự nguyện rút lui và luôn có khả năng rằng, một khi khói tan và không khí bớt mùi thuốc súng, chúng tôi sẽ dính vào một kẻ nào đó (ở ghế TTK LHQ) còn tệ hơn. Trong chuyến bay đến Bosnia với tổng thống vào tháng 1/1996, tôi đặt vấn đề trên với Bill Clinton và tổng thống đồng ý sự phân tích của tôi.
(Ngoại trưởng) Warren Christopher yêu cầu tôi thảo kế hoạch bằng văn bản, với hai ý: nhất thiết thay Boutros-Ghali; đồng thời đề xuất ứng cử viên thay thế, trong đó có một người mà tôi cho là thích hợp nhất: ông Kofi Annan - viên chức LHQ đầy kinh nghiệm từng lãnh nhiều trọng trách nặng nề... Trong nhiều tháng, chúng tôi giữ kín chiến dịch đưa Kofi Annan lên ghế TTK LHQ. Cùng lúc, Warren Christopher thuyết phục Boutros-Ghali từ bỏ chiến dịch tái tranh cử và đưa ra một mặc cả: Boutros-Ghali tiếp tục làm thêm một năm sau nhiệm kỳ chính thức, cho đến sinh nhật lần thứ 75 của ông. Tuy nhiên, Boutros-Ghali lại “đòi” thêm nửa nhiệm kỳ (hai năm rưỡi)...
Giữa tháng 6/1996, Ngoại trưởng Warren Christopher xì nguồn tin liên quan ứng cử viên sáng giá Kofi Annan cho tờ New York Times. Tôi nghe tin khi đang đi từ San Diego đến Los Angeles và biết ngay mình phải làm gì. Điện thoại di động hỏng, tôi dùng điện thoại công cộng liên lạc với các đại sứ LHQ thường trực khác. Đúng như tôi đoán, tất cả đại sứ đều bất mãn. Chiến dịch của chúng tôi xuất phát không thuận lợi bây giờ càng tồi tệ. Với Pháp và Ai Cập hậu thuẫn, 53 quốc gia châu Phi tổ chức hội nghị, tuyên bố ủng hộ Boutros-Ghali đến cùng... Mùa thu 1996 đã ngốn hết thời gian và sức lực khi chúng tôi cùng lúc thực hiện hai chiến dịch bầu cử: tái tranh cử của Bill Clinton và ngăn tái tranh cử của Boutros-Ghali.
Ngày 19/11/1996, tôi phủ quyết nghị quyết cho phép Boutros-Ghali tranh cử nhiệm kỳ hai. Với tỉ lệ phiếu 14/1 (14 ủng hộ và 1 chống), cuộc đối đầu mà chúng tôi cố tránh bây giờ trở thành công khai và rõ ràng chúng tôi bị cô lập. Tổng thống Ethiopia Meles Zenawi gửi thư cho Tổng thống Cameroon Paul Biya (lúc đó giữ ghế chủ tịch OAU - Tổ chức thống nhất châu Phi), yêu cầu tìm ứng cử viên châu Phi thay thế. Cùng lúc, hành lang LHQ bắt đầu nhốn nháo tranh luận việc săn tìm ứng cử viên châu Phi thích hợp - người có thể đáp ứng yêu cầu của Mỹ (ủng hộ cải tổ LHQ); yêu cầu Pháp (nói tiếng Pháp giỏi) và yêu cầu Trung Quốc (không ủng hộ Đài Loan). Cuối cùng, ngày 13/12/1996, UNSC nhất trí đề cử ông Kofi Annan tranh cử ghế TTK LHQ thứ 7”...
(Xem tiếp kỳ sau)
Mạnh Kim