Rà soát quy hoạch thủy điện:
Thủ tướng đồng ý loại bỏ 577 dự án thủy điện
Báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy, sau khi rà soát tổng thể các dự án thủy điện (DATĐ), Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý loại khỏi quy hoạch tổng số 405 DATĐ (1.247,6 MW), gồm 02 DATĐ bậc thang (118 MW) và 403 DATĐ nhỏ (1.128,8 MW); không xem xét đưa vào quy hoạch 172 vị trí tiềm năng thủy điện nhỏ (375,7 MW) chưa có nhà đầu tư quan tâm đầu tư phát triển.
Báo cáo cho biết, tất cả các DATĐ, vị trí được loại bỏ này đều thuộc các dự án hiệu quả kinh tế thấp, tiềm ẩn khả năng tác động tiêu cực đến môi trường - xã hội, ảnh hưởng đến quy hoạch/dự án ưu tiên khác, nhà đầu tư trả lại dự án do không khả thi hoặc không có nhà đầu tư quan tâm.
“Các quy hoạch bậc thang TĐ vừa và lớn (130 dự án, chiếm khoảng 74% tổng công suất lắp máy (Nlm)) và các quy hoạch TĐ nhỏ (1.109 dự án, chiếm khoảng 26% Nlm) với tổng số 1.239 dự án (Nlm = 26.013MW) của cả nước đã được lập và được Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương và UBND các tỉnh phê duyệt theo thẩm quyền. Nhìn chung, cho đến nay trên 90% tiềm năng kinh tế-kỹ thuật thủy điện ở nước ta đã được khai thác và cơ cấu nguồn thủy điện có xu hướng giảm dần”, Chủ nhiệm Phan Xuân Dũng - Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (UB KHCNMT) thể hiện trong báo cáo thẩm tra.
Riêng đối với các DATĐ Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A, Chính phủ đã loại khỏi quy hoạch, mặc dù trước đó đã nhiều lần đưa vào quy hoạch. Vì thế, UB KHCNMT đề nghị Chính phủ cần làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc để hạn chế thất thoát và lãng phí cho người dân, doanh nghiệp và xã hội. Qua các văn bản, báo cáo có liên quan đến hai dự án này, UB KHCNMT nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu, xem xét, sửa đổi quy định về quy trình lập, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) cho phù hợp.
(Ảnh minh họa)
Về chất lượng xây dựng công trình thủy điện, UB KHCNMT đánh giá, có giai đoạn việc quản lý chất lượng công trình xây dựng hầu như được giao hoàn toàn cho chủ đầu tư thực hiện và tự chịu trách nhiệm, thiếu sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước. Tại một số dự án, công trình TĐ, chất lượng khâu khảo sát, thiết kế, thi công, giám sát có nhiều hạn chế, gây không ít hệ lụy. Trong khi đó, trách nhiệm, xử lý sai phạm của chủ đầu tư, các chủ thể khác có liên quan khi công trình có chất lượng kém hoặc để xảy ra sự cố chưa được quy định cụ thể. Công tác quản lý an toàn tại các công trình TĐ nhỏ chưa thực sự tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật, tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường.
Đối với các công trình TĐ nhỏ, gần 30% số đập chưa được kiểm định; khoảng 6% số chủ đầu tư hoàn thành cắm mốc chỉ giới; khoảng 66% đập chưa có phương án bảo vệ được phê duyệt; gần 55% số chủ đập chưa có phương án phòng chống lụt bão. Hiệu quả làm việc của hệ thống quan trắc tại một số công trình TĐ là rất thấp. Việc xây dựng phương án phòng chống lụt bão cho vùng hạ du trong tình huống xả lũ khẩn cấp, vỡ đập... gặp nhiều khó khăn, ít được quan tâm.
Nguyên nhân của những bất cập nêu trên là không ít chủ đầu tư năng lực chuyên môn và tài chính hạn chế; quy định về chế tài xử phạt vi phạm về an toàn đập, kiểm định đập; vai trò, trách nhiệm, sự phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước và chủ đầu tư chưa được ban hành kịp thời, rõ ràng và chưa được thực thi đầy đủ. Ngoài ra, thông tin, số liệu về điều kiện tự nhiên thường không đầy đủ và thiếu cập nhật do hạn chế nguồn lực đầu tư cho giai đoạn điều tra, khảo sát khu vực dự án.
Lê Tùng