Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tầm nhìn điện lực đi trước một bước
Sáng 10/10, mùa Thu Hà Nội, cùng dòng tưởng nhớ và nỗi tiếc thương vô hạn đối với vị Đại tướng kính yêu của nhân dân Việt Nam, Tiến sĩ - Anh hùng Lao động Thái Phụng Nê, nguyên Bộ trưởng, nguyên Phái viên của Thủ tướng Chính phủ đã tâm sự với chúng tôi những cảm nhận của mình về con người đáng kính ấy.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp dự lễ khởi công xây dựng công trình đường dây 110kV Huế - Đà Nẵng.
Trong câu chuyện, TS Thái Phụng Nê như chìm trong hồi ức về những lần được dự họp trực tiếp báo cáo với Đại tướng, được nghe và thực hiện các chỉ đạo của Người trong việc xây dựng thủy điện từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước.
Thời gian ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Phó Thủ tướng phụ trách khoa học kỹ thuật và rất quan tâm đến hoạt động điện lực. “Trong công tác chỉ đạo chung, Đại tướng luôn căn dặn “ngành Điện phải đi trước một bước”, phải chú trọng vào công tác đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện” - TS Thái Phụng Nê nhắc lại.
Trong đó, Thủy điện Hòa Bình - theo cảm nhận của TS Thái Phụng Nê - là công trình mà vai trò của Phó Thủ tướng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại rất nhiều dấu ấn đậm nét.
Vị cố vấn cao cấp về thủy điện nhớ lại, khi chuẩn bị xây dựng Thủy điện Hòa Bình, giới chuyên môn và xã hội đã dấy lên cuộc tranh luận hết sức sôi nổi về việc nên chọn lựa phương án xây dựng ngầm hay hở. Đông đảo các ngành, nghề, các nhà khoa học, kỹ thuật chuyên môn, trí thức đăng đàn cho ý kiến và chia thành 2 nhóm đối kháng tranh luận tưởng chừng "không thể ngã ngũ".
Thủy điện Hòa Bình là công trình do Liên Xô giúp đỡ từ thiết kế, hướng dẫn thi công mà lúc đó là Viện Thiết kế Thủy công Mạc Tư Khoa. Qua tính toán, so sánh về kinh tế kỹ thuật thì các chuyên gia Liên Xô có kiến nghị rằng: Xây dựng nhà máy thủy điện ngầm là việc “nằm trong tầm tay” của nước bạn. Mặt khác, trong điều kiện địa hình và địa chất cụ thể của Thủy điện Hoà Bình thì phương án ngầm rẻ hơn phương án hở đến 4%. Đồng thời, nếu thực hiện phương án ngầm thì các tổ máy 1 và máy 2 có thể đưa vào vận hành sớm hơn dự kiến.
Nên nhớ, thập niên 80 của thế kỷ XX là thời điểm nước ta thiếu điện trầm trọng. Bởi vậy, đưa các tổ máy vào vận hành sớm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quốc gia.
Tuy nhiên, chúng ta vốn chưa có kinh nghiệm làm nhà máy thủy điện ngầm, đặc biệt là một công trình ngầm lớn như Thủy điện Hòa Bình. Do đó, phần đông ý kiến khi ấy tỏ ra lo ngại rằng, chúng ta không đủ sức và lực để thực hiện phương án ngầm.
Trong bối cảnh đó, một cuộc họp để quyết định "ngầm hay hở" cho Thủy điện Hòa Bình do Phó thủ tướng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì đã được tổ chức. TS Thái Phụng Nê lúc này đảm đương nhiệm vụ quản lý công trình thủy điện nên được mời dự họp.
TS Nê đặc biệt ấn tượng về tác phong dứt khoát của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông kể lại, Đại tướng yêu cầu các báo cáo phải “ngắn gọn” và “đi thẳng vào nội dung” chứ không “kể lể” dài dòng, mất thời gian. Đại tướng lắng nghe với sự tập trung cao độ, chú trọng nghe tất cả ý kiến của các đơn vị liên quan cũng như những phân tích của các nhà nghiên cứu, chuyên gia,… trong cuộc họp.
Kết thúc buổi họp, Đại tướng kết luận: "Tôi quyết định Thủy điện Hòa bình sẽ chọn phương án ngầm”.
Ông Nê cho biết, ông vô cùng ngưỡng mộ Đại tướng – một nhà chỉ huy quân sự thiên tài – vì sự am hiểu trong lĩnh vực chuyên môn kỹ thuật phức tạp này. Hơn hết là việc Người đã suy xét, cân nhắc cẩn trọng trên nhiều phương diện, từ những tính toán kỹ thuật của các chuyên gia Liên Xô đến sự phân tích, cố vấn của các chuyên gia, các nhà chuyên môn trong nước để đưa ra một kết luận quyết đoán và sáng suốt cho Thủy điện Hòa Bình như chúng ta có được ngày hôm nay.
Cũng từ “trường học lớn" - Thủy điện Hòa Bình đã đào tạo cho Việt Nam đội ngũ thợ xây dựng thủy điện chất lượng cao, trong đó có xây dựng các thủy điện ngầm khác như Ialy, Huội Quảng.
Ông Nê nhớ lại, không chỉ trong thời gian tại nhiệm mà cả thời gian đã nghỉ hưu, những ý kiến liên quan đến xây dựng thủy điện của Đại tướng đều có ý nghĩa “kim chỉ nam”. Điển hình là đầu những năm 2000, Quốc hội, Chính phủ, các chuyên gia trong nước khi đó đang tranh luận hết sức quyết liệt về quy hoạch bậc thang sông Đà thông qua lựa chọn xây dựng Thủy điện Sơn La cao/Sơn La thấp hay Sơn La nhỏ.
Khi đến hỏi ý kiến của Đại tướng, Người nói: “Đối với đất nước mình thì phải đặt vấn đề an toàn lên cao nhất. Cái gì an toàn hơn thì chọn”. Ông cũng không quên căn dặn: “Các đồng chí phải tính toán kỹ, bàn kỹ rồi hẵng quyết định”.
Sau đó, Quốc hội đã quyết định chọn phương án Sơn La thấp tức là có 3 bậc trên dòng chính sông Đà gồm các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Sơn La và Lai Châu. Đến nay, cả 3 bậc thang thủy điện sông Đà đã phát huy hiệu quả và đảm bảo cao nhất cho an toàn của vùng hạ du.
Bằng tầm nhìn chiến lược và trí tuệ sáng suốt của mình, Đại tướng có vai trò rất lớn trong việc góp phần phát triển ngành thủy điện tại Việt Nam như hiện nay - TS Thái Phụng Nê nói.
Ông Trịnh Trọng Thực - nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch kinh tế điện, thuộc Bộ Điện lực: "Cuối năm 1982, tôi được cử làm Phó chủ nhiệm Chương trình Cân bằng năng lượng toàn quốc. Tôi đã biên soạn và có phần báo cáo "Kết quả bước đầu trong việc thực hiện Chương trình Năng lượng mới" tại Hội nghị khoa học do Phó Thủ tướng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì. Lúc đó, Đại tướng là Phó thủ tướng phụ trách công tác khoa học và công tác giáo dục đào tạo. Tôi giữ mãi ấn tượng về ông là 1 người rất điềm tĩnh, làm việc khoa học và nghiêm túc. Tất cả các báo cáo trong hội nghị hôm đó ông đều lắng nghe rất kỹ. Có thể nói, Đại tướng đã rất quan tâm, trăn trở với việc phát triển, ứng dụng các nguồn năng lượng mới cho đất nước". |
Hoàng Tuyết