Những vấn đề cần ưu tiên trong ‘Chiến lược phát triển năng lượng’ [Kỳ 3]
KỲ 3: TÍNH HỆ THỐNG CỦA SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NĂNG LƯỢNG
PGS, TS. BÙI HUY PHÙNG - TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Trước hết, chúng tôi xin dẫn lại quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị trong Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị: "Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội. Tăng cường kiểm toán năng lượng; xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ mạnh và khả thi để khuyến khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, góp phần thúc đẩy năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng".
Về cơ cấu lại các ngành và khu vực tiêu thụ năng lượng song song với thực hiện chính sách về sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả, Nghị quyết của Bộ Chính trị đã định hướng như sau:
"- Cơ cấu lại các ngành tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài để giảm thiểu cường độ năng lượng. Có chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp tiêu thụ ít năng lượng và có hiệu quả về kinh tế-xã hội.
- Rà soát, điều chỉnh phân bố các nguồn tiêu thụ năng lượng linh hoạt theo hướng phân tán, hạn chế việc tập trung quá mức vào một số địa phương, kết hợp chặt chẽ với phân bố lại không gian phát triển công nghiệp và đô thị trên phạm vi cả nước, từng vùng và địa phương.
- Rà soát, hoàn thiện Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2020-2030. Triển khai áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn bắt buộc kèm theo chế tài về sử dụng hiệu quả năng lượng đối với những lĩnh vực, ngành và sản phẩm có mức tiêu thụ năng lượng cao. Có chính sách khuyến khích các hộ tiêu thụ sử dụng năng lượng sạch, tái tạo, nhất là trong công nghiệp và giao thông; thúc đẩy phát triển các phương tiện giao thông sử dụng điện năng phù hợp với xu thế chung trên thế giới". (Hết trích dẫn)
Tiêu thụ điện và năng lượng Việt Nam tăng nhanh, hiệu quả thấp
1/ Tiêu thụ năng lượng và điện năng tăng nhanh:
Thực trạng tiêu thụ năng lượng Việt Nam thời gian qua tăng nhanh. Theo số liệu thống kê năng lượng, và đã nêu trong bài "Điện tái tạo và điện hạt nhân: Hai nguồn chiến lược" trên NangluongVietnam Online: "Tiêu thụ năng lượng cuối cùng của Việt Nam giai đoạn 2012 - 2018 bình quân với tốc độ khoảng 6%/năm; Tiêu thụ điện giai đoạn 2011-2019 tăng nhanh (khoảng 10%/năm), năm 2019 tổng công suất điện đạt trên 54.880 MW, sản xuất điện năng đạt gần 240 tỷ kWh. Cơ sở hạ tầng của ngành năng lượng phát triển nhanh. Hiện về quy mô nguồn điện đã đứng 2 khu vực Đông Nam châu Á, thứ 23 trên thế giới. Nội dung sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường đang từng bước được quản lý tốt hơn, nhưng hiệu quả sử dụng còn nhiều bất cập".
Điện thương phẩm và tốc độ tăng giai đoạn 2010-19 được trình bày dưới đây.
2010 |
2011 |
2012 |
2013 |
2014 |
2015 |
2016 |
2017 |
2018 |
2019 |
Điện thương phẩm (tỷ kWh)
|
|||||||||
87,66 |
98,63 |
105,47 |
117,0 |
128,4 |
141,8 |
159,3 |
174,0 |
193 |
215 |
Tốc độ tăng (%)
|
|||||||||
15,2 |
12,5 |
7,0 |
10,9 |
9,7 |
10,4 |
12,3 |
9,2 |
10,5 |
9,9 |
Theo Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) - QHĐVII ĐC, Chính phủ đã phê duyệt tháng 3/2016 [1, 2], tổng điện năng sản xuất so với QHĐVII được điều chỉnh giảm khoảng 20%.
Cụ thể, năm 2015: 164 tỷ; 2020: 265; 2025: 400; 2030: 575 tỷ kWh. Trong đó, nhiệt điện than có tỷ trọng lớn, trên 50% tổng sản xuất điện, thủy điện giảm từ 25 xuống 12,4%, điện từ khí đốt ở mức 17-19%, điện năng lượng tái tạo (NLTT) tăng 6,5-6,9% giai đoạn 2020-25 lên 10,7% vào 2030.
So với QHĐVII, tỷ trọng điện năng từ NLTT được điều chỉnh tăng 1,8 lần, nhưng lượng tuyệt đối chỉ 1,3 lần, vì tổng điện năng sản xuất được điều chỉnh giảm 20%. Theo đó, điện sản xuất đầu người thực tế, năm 2016: 2.010; 2017: 2.185; năm 2018: 2.300 kWh; dự báo năm 2020: 2.800; 2025: 4.100; 2030: 5.200 kWh/người.
Dưới đây, chúng tôi giới thiệu một vài con số để thấy mức tiêu thụ năng lượng của Việt Nam đang ở đâu trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Theo thống kê quốc tế năm 2018, tiêu thụ năng lượng bình quân thế giới khoảng 1.795 kgOE/người, sản xuất điện bình quân khoảng 3.100 kWh/người. Với các nước trong khu vực, tiêu thụ điện bình quân đầu người năm 2018: Singapore là 8.300, Malaysia: 4.300; Thailand: 2.736, Trung Quốc: 4.018; Hàn Quốc: 9.872; Nhật Bản: 7.480 kWh; v.v...
Với mức tiêu thụ và dự báo như đã trình bày trên, so với các nước tiên tiến, Việt Nam còn thấp. Nếu so với mức trung bình thế giới, tiêu thụ năng lượng nói chung Việt Nam chỉ mới khoảng 35-40%, về tiêu thụ điện chỉ khoảng 65%. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay việc sử dụng công nghệ cao, tiêu thụ ít năng lượng, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường mới là điều đáng quan tâm hơn.
2/ Hiệu quả sử dụng điện, năng lượng của Việt Nam thấp:
Hiệu quả sử dụng năng lượng, được hiểu tổng quát là mức tiêu thụ năng lượng, tiêu thụ điện để sản xuất một đơn vị vật chất/tiền tệ. Tổng quoát đối với một quốc gia thường được đo lường bằng "Cường độ năng lượng" (CĐNL) và "Cường độ điện" (CĐĐ) đối với GDP - nghĩa là cần bao nhiêu đơn vị năng lượng/điện năng để có được một đơn vị GDP ( 1 USD, 1000 USD...). Chỉ tiêu này ở một số nước vào năm 2014 như sau:
Quốc gia |
Thái Lan |
Nhật Bản |
Singapo |
Hàn Quốc |
CHLB Đức |
Trung Quốc |
LB Nga |
CĐĐ -kWh/USD |
0,56 |
0,22 |
0,25 |
0,40 |
0,25 |
1,05 |
1,0
|
CĐNL -kgOE/1000USD |
199 |
154 |
139 |
159 |
164 |
231 |
205 |
Ở Việt Nam hiện nay cường độ điện khoảng 0,95-1 kWh/USD, lại còn được dự báo tăng lên vào 2020-2025. Đồng thời hệ số đàn hồi điện - tỷ lệ tốc độ tăng trưởng điện so với tốc độ tăng GDP, các nước nói chung nhỏ hơn 1, Việt Nam hiện tại khoảng 1,6 và có xu thế tăng. Cường độ năng lượng nói chung năm 2017 khoảng 300 kgOE/KUSD.
Như vậy mức tiêu thụ điện năng của Việt Nam cao hơn các nước 2-3 lần! Điều này dẫn tới chi phí sản xuất xã hội cao, tính cạnh tranh thấp, năng suất lao động thấp [6].
Kết quả thi hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (SDNLTK&HQ) [4, 5].
1/ Luật đã có tác động tích cực đến hoạt động của ngành năng lượng nói riêng và kinh tế xã hội Việt Nam nói chung.
2/ Xây dựng và hoàn thiện một số văn bản pháp luật, hệ thống quy định pháp lý, các tiêu chuẩn, chính sách tạo điều kiện, làm cơ sở pháp lý cho hoạt động SDHQ&TKNL, có thể kể tới là: Luật 50/2010/QH12; Nghị định CP21/2011; Nghị định CP 134/2013; và nhiều thông tư, quyết định khác cho từng ngành...
3/ Các kết quả tuyên truyền và đào tạo: Công tác tuyên truyền đã được chú ý triển khai từ Trung ương tới địa phương. Qua một số khảo sát cho thấy, nhiều cán bộ quản lý và người dân đã nâng cao được nhận thức về lợi ích của tiết kiệm năng lượng; đã đào tạo trên 250 kiểm toán viên năng lượng và trên 2.500 cán bộ quản lý năng lượng được Bộ Công Thương cấp chứng chỉ.
4/ Xây dựng và phát triển nhiều trung tâm tiết kiệm năng lượng ở các tỉnh, thành phố; các đơn vị dịch vụ năng lượng (ESCO), trợ giúp các địa phương, các hộ tiêu thụ kiểm toán năng lượng, tiến hành các dự án tiết kiệm năng lượng (TKNL).
5/ Kết quả hoạt động TKNL ở một số lĩnh vực trọng điểm: Công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, chương trình gián nhãn năng lượng,... rất đáng ghi nhận, thể hiện tập trung thông qua Chương trình quốc gia về SDTK&HQNL (VNEEP) hai giai đoạn 2006-10 và 2011-2015.
Kết quả định lượng tiết kiệm được trình bày ở bảng sau:
Kết quả tiết kiệm năng lượng từ thực hiện VNEEP giai đoạn 1 và 2.
Giai đoạn |
2006-2010 |
2011-2015 |
Mục tiêu TKNL đề ra (%) |
3-5 |
5-8 |
Kết quả đạt được (%) |
3,4 |
5,65 |
Tổng NLTK (triệu TOE) |
4,5 |
11,26 |
Nhận xét
Thứ nhất: Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là khâu cực kỳ quan trọng, nó được đánh giá là tạo ra nguồn năng lượng sạch giá rẻ, là quốc sách "thâm canh" trong năng lượng. Tuy thực thi Luật và hoạt động của Chương trình hoạt động khá sôi nổi, nhưng tính lan tỏa và hiệu quả còn thấp, nhận thức của cộng đồng, doanh nghiệp, kể cả nhà quản lý vẫn còn hạn chế, lượng năng lượng tiết kiệm được còn khá khiêm tốn.
Thứ hai: Nội dung hiệu quả và tiết kiệm năng lượng có tính hệ thống cao, nhưng thời gian qua chỉ mới thực hiện chủ yếu theo quy mô các dự án đơn lẻ, theo từng hộ tiêu thụ. Đặc biệt là thiếu những khảo sát đánh giá tổng thể về tiềm năng TKNL, nên tính lan tỏa và hiệu quả chưa cao.
Thứ ba: Thiếu cơ chế quản lý và hỗ trợ, nên công tác quản lý các cơ sở sử dụng năng lượng còn khá lỏng lẻo, do chưa kịp thời điều chỉnh mức tiêu thụ của hộ trọng điểm, số hộ trọng điểm tăng lên phải quản lý, nhưng lại chưa kiểm soát được tổng năng lượng tiêu thụ cần quản lý, việc trợ giúp các doanh nghiệp đầu tư thay đổi công nghệ còn rất hạn chế.
Thứ tư: Luật còn những phân biệt đối xử giữa hộ tiêu thụ năng lượng nhà nước và tư nhân, thể hiện thiếu bình đẳng.
Thứ năm: Kết quả đạt được từ việc thực thi Luật và Chương trình quốc gia là rất đáng ghi nhận, nhưng thiếu những tổng kết, đánh giá cụ thể, mức độ tin cậy; thiếu tổ chức biên tập cơ sở dữ liệu để sử dụng cho hoạt động TK&HQ, lập kế hoạch, quy hoạch năng lượng; thiếu quan tâm xây dựng các chỉ tiêu pháp lý cho hoạt động này.
Thứ năm: Chỉ tiêu Cường độ năng lượng, Cường độ điện chưa trở thành chỉ tiêu quản lý vĩ mô của quốc gia, mặc dù đã có một số lần kiến nghị.
Thứ sáu: Đầu tư cho hoạt động TK&HQNL nói chung và cho Chương trình quốc gia nói riêng được đánh giá còn khá khiêm tốn, việc động viên tư nhân, doanh nghiệp đầu tư còn hạn chế.
Tính hệ thống và tiềm năng giảm tiêu thụ năng lượng
Một số đánh giá về tiềm năng TKNL:
1/ Trước Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG), trong khuôn khổ Đề tài độc lập cấp Nhà nước - KCĐL 95-04 (1995-97) và Đề tài sử dụng NLTK&HQ thuộc Chương trình Nhà nước KHCN-09 (giai đoạn 1996-2000), bước đầu đã có đánh giá tổng thể tiềm năng tiết kiệm năng lượng của Việt Nam rất lớn, có thể đạt 15-20% tổng tiêu thụ năng lượng.
2/ Trong hai giai đoạn thực hiện Chương trình MTQG về SDLNTK&HQ - 2006 - 2010 và 2012-2015, đồng thời với việc thực thi các dự án TKNL ở một số ngành, xây dựng văn bản pháp luật, đào tạo, tuyên truyền, Chương trình cũng triển khai điều tra đánh giá tiềm năng TKNL ở một số ngành công nghiệp và thực hiện các dự án với kết quả tiết kiệm khoảng 5% như phần trên đã trình bày.
3/ Gần đây (2018), để chuẩn bị xây dựng Chương trình MTQG về SDTK&HQNL, giai đoạn 2019-2030 [3], Bộ Công Thương đã triển khai đánh giá điển hình cho 10 cơ sở trong gần 2.500 cơ sở tiêu thụ năng lượng trọng điểm của cả nước, kết quả cho thấy khả năng tiết kiệm khoảng 4,8% tổng tiêu thụ năng lượng, nếu thực hiện những giải pháp hợp lý, có thể thu hồi vốn trong vòng 2,6 năm, cũng cho thấy tiềm năng TKNL lớn.
4/ Công nghệ sản xuất và tiêu thụ năng lượng, đặc biệt trong khâu tiêu thụ còn khá lạc hậu, tiêu hao năng lượng cao, nhìn chung cao hơn mức tiên tiến khoảng 30-35%. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ về nghiên cứu đánh giá trình độ công nghệ cho từng ngành và tổng thể để phục vụ cho lộ trình thay đổi công nghệ, giảm tiêu thụ năng lượng.
Tính hệ thống của hiệu quả năng lượng:
Nội dung sử dụng NLTK&HQ, nên được hiểu một cách hệ thống là "Sử dụng hiệu quả năng lượng". Thuật ngữ này tương thích với cách hiểu của nhiều nước trên thế giới. Trong các tài liệu khoa học và cả văn bản luật họ thường dùng: Hiệu quả năng lượng (Energy Efficency) hoặc, Bảo tồn năng lượng (Energy Conservation). Tính hệ thống được xem xét với các phạm vi khác nhau và tổng hợp.
Thứ nhất: Tính hệ thống theo phạm vi quốc gia.
Nội dung sử dụng HQNL có tính hệ thống cao, nói hiệu quả là bao gồm cả tiết kiệm, để giảm tiêu thụ năng lượng nhiều hơn. Ngoài việc tiết kiệm năng lượng đối với từng hộ tiêu thụ, thì nền kinh tế cần xem xét phát triển các ngành tiêu thụ năng lượng thấp mà đem lại giá trị gia tăng cao, giảm dần các ngành tiêu thụ nhiều năng lượng (nếu không phải là bắt buộc) mà giá trị gia tăng thấp.
Hiện nay, công nghiệp Việt Nam tiêu thụ trên 52% điện năng, khoảng 39% tổng năng lượng thượng mại (NLTM) mà chỉ làm ra 32,5%GDP, trong đó sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng, sắt thép... được đánh giá là tiêu tốn nhiều năng lượng. Trong khi nông - lâm - ngư nghiệp vốn là những ngành tiêu thụ ít năng lượng. Thực tế cho thấy, chỉ tiêu thụ 1,4% tổng điện năng, 1,3 % tổng NLTM mà đem lại 22%GDP. Hiện nay nông nghiệp vẫn bị đánh giá canh tác còn thủ công, chế biến, bảo quản kém làm mất đi giá trị sản phẩm, phải nhập nhiều nhu yếu phẩm cho sản xuất, chăn nuôi… Thực tế chúng ta chưa làm rõ nội dung điện khí hóa trong nông nghiệp và cung cấp năng lượng đầy đủ cho nó. Bên cạnh đó các ngành công nghiệp nhẹ, dịch vụ, thường được xem là "đầu tư ngắn ngày mau ăn", đặc biệt các ngành công nghệ cao, thiếu định hướng chiến lược.
Hơn 30 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế Việt Nam gần như chưa mấy thay đổi, chúng ta cần nghiên cứu cơ cấu lại nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng. Có thể thực hiện thông qua Bài toán tối ưu cân đối phát triển liên ngành, qua đó sử dụng hiệu quả năng lượng một cách hệ thống - đây chính là tiềm năng giảm tiêu thụ năng lượng và tạo điều kiện giảm tiêu thụ năng lượng nhiều hơn, chứ không phải chỉ là tiết kiệm theo từng dự án, cường độ năng lượng quốc gia mới có thể giảm nhiều và tránh tụt hậu.
Lưu ý rằng, việc đánh giá tiềm năng giảm tiêu thụ năng lượng một cánh hệ thống thông qua cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân, chúng ta chưa bao giờ tổ chức thực hiện. Đây là một khâu cần thay đổi tư duy để phát triển.
Thứ hai: Tính hệ thống thể hiện theo phạm vi ngành.
Trong từng ngành có nhiều hộ tiêu thụ năng lượng quy mô tương đương, công nghệ tương tự, có thể lập thành nhóm để nghiện cứu.
Ví dụ như trong công nghiệp, các hệ thống lò hơi, lò đốt, lưới nhiệt; trong xây dựng, kiến trúc các tòa nhà xây dựng có cùng mục đích sử dụng; trong giao thông vận tải có các chủng loại xe, tàu vận tải tương tự, v.v... có thể tiến hành kiểm toán, xây dựng dự án cải tạo, chuyển đổi công nghệ điển hình, xây dựng các quy chế, định mức năng lượng, để cùng thực hiện, như vậy sẽ tiết kiệm thời gian, kinh phí…
Thứ ba: Tính hệ thống thể hiện theo phạm vi vùng.
Việt Nam hiện đã có phân vùng: Tây Bắc bộ, Đông Bắc bộ, Trung bộ, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Nam bộ; trong mỗi vùng có đặc điểm tự nhiên, khí hậu, tập quán tương tự nhau, có thể phân loại quy mô nhà ở, tập quán đun nấu, sấy, sưởi, sử dụng năng lượng, cần nghiên cứu phát hiện các phương thức hiệu quả năng lượng với quy mô vùng.
Thứ tư: Đánh giá chung tiềm năng giảm tiêu thụ năng lượng/điện, với quan điểm hệ thống. Trong bài viết này, chúng tôi dùng cụm từ tổng quát "tiềm năng giảm tiêu thụ năng lượng" thay vì "tiềm năng tiết kiêm năng lượng" vốn có tính đơn lẻ.
Từ kết quả đã trình bày trên, khả năng giảm tiêu thụ năng lượng (từ Chương trình MTQG) khoảng 4-5%; kết quả mới khảo sát điển hình vừa qua khoảng 5%. Nếu chỉ như vậy thì chưa lý giải được cường độ năng lượng, cường độ điện của Việt Nam bao giờ mới theo kịp các nước tiên tiến.
Rõ ràng chúng ta phải phân tích một cách toàn diện, hệ thống. Khả năng giảm tiêu thụ năng lượng thông qua cơ cấu lại kinh tế quốc dân được đánh giá lớn hơn nhiều, có thể khoảng 30-40% tổng tiêu thụ năng lượng, cần nghiên cứu làm rõ.
Theo đánh giá của chuyên gia WB, tiềm năng giảm tiêu thụ năng lượng của Việt nam cũng lên tới 25-35%.
Ngày 13 tháng 3 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình quốc gia về SDTK&HQNL giai đoạn 3, từ năm 2019 - 2030 (VNEEP3) trong Quyết định số 280/QĐ-TTg, trong đó mục tiêu TKNL trong tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc giai đoạn 2019 - 2025 là từ 5 - 7%, giai đoạn 2026 - 2030 là 8 - 10%.
Một số khuyến nghị
1/Chính phủ - mà trực tiếp là Bộ Kế hoạch - Đầu tư tổ chức nghiên cứu tính toán cơ cấu phát triển kinh tế quốc dân hợp lý, hướng tới nền kinh tế phát triển bền vững tiêu thụ ít năng lượng.
2/ Bộ Công Thương và Chương trình MTQG về SDNLTK&HQ, nên tổ chức khảo sát, đánh giá toàn diện khả năng giảm tiêu thụ năng lượng, trình độ công nghệ ở tất cả các lĩnh vực (ít nhất là đối với các ngành trọng điểm), từ đó có cơ sở khoa học, thực tiễn để tiến hành các dự án hiệu quả năng lượng, xây dựng lộ trình thay đổi công nghệ hướng tới công nghệ hiện đại và hiệu quả năng lượng.
3/ Bộ Công Thương nên khẩn trương tổ chức xây dựng Quy hoạch năng lượng tổng thể quốc gia và các phân ngành (dĩ nhiên gồm QHĐ VIII), đến 2030-2035. Theo đó, tính toán dự báo nhu cầu chính xác, cơ cấu sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng, giảm tiêu thụ năng lượng.
4/ Tình hình năng lượng và kinh tế quốc gia hiện tại đã có nhiều thay đối so với thời điểm ban hành Luật SDNLTK&HQ (2010), vậy nên đề nghị nghiên cứu sửa đổi bổ sung.
5/ Hiện nay, Việt Nam có đủ điều kiện nhân tài vật lực để thực hiện các khuyến nghị trên, vấn đề là tổ chức thực hiện./.
(Đón đọc kỳ tới...)
Tài liệu tham khảo chính:
1/ Luật 50/2010/QH, 2012
2/ Quy hoach điện VII, 2012 và Quy hoạch điện VII ĐC, 2016
3/ QĐ phê duyệt CTMTQG về sử dụng năng lượng TK&HQ giai đoạn 2019-30
4/ BC Hội thảo CTQG về SDNLTK&HQ giai đoạn 2019-30, Hà Nội 6-2018, Chủ biên Trịnh Quốc Vũ - Bộ CT
5/ DTBCĐề tài: Đánh giá hiện trạng thực hiện Luật SDTK&HQNL-Bộ KH&CN SDNLTKHQVN, 12-2019
6/ Bùi Huy Phùng, Hiệu quả năng lượng và năng suất lao động Việt Nam, TCNLVN, 5-2018
7/ Bùi huy Phùng-HQNL-Biện pháp căn cơ khắc phục thiếu điện, Tạp chí Năng lượng Việt Nam, 11-2019
Theo Năng lượng Việt Nam
-
Tăng cường hợp tác quốc tế và phổ biến kiến thức khoa học hướng tới tăng trưởng xanh
-
Cần cơ chế đặc thù cho các Tập đoàn chủ đạo trong nền kinh tế
-
Thẩm quyền giám sát vốn đầu tư Nhà nước tại doanh nghiệp còn chồng chéo
-
Thúc đẩy các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí tại đô thị lớn
-
Thúc đẩy chuyển đổi xanh trong sản xuất nông sản, thực phẩm sang EU