Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Kỷ nguyên dầu giá rẻ đã kết thúc?

14:21 | 19/12/2022

4,632 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo một số nhà phân tích, sự sụt giảm gần đây của giá dầu có thể không phải là dấu hiệu cho những gì sắp xảy ra trên thị trường dầu mỏ.

Trong báo cáo mới nhất, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) tiết lộ họ lại không sản xuất được nhiều dầu như mức cam kết trong cuộc họp mới đây. Sự thiếu hụt này cũng không còn chỉ xảy ra khoảng vài nghìn thùng dầu mỗi ngày nữa mà đã lên khoảng 1,8 triệu thùng/ngày. Nhưng điều quan trọng hơn là việc luôn không đạt được sản lượng mục tiêu đã trở thành điều bình thường của liên minh xuất khẩu dầu mỏ này.

Kỷ nguyên dầu giá rẻ đã kết thúc? - 1
Mỹ đang cần mua thêm dầu sau khi đã giải phóng 200 triệu thùng dầu từ kho dự trữ chiến lược trong năm nay (Ảnh: Reuters).

Trong khi đó, chính phủ liên bang Mỹ đang cần mua thêm dầu cho kho dự trữ chiến lược sau khi giải phóng gần 200 triệu thùng dầu trong năm nay nhằm hạ nhiệt giá dầu. Tuy nhiên, các công ty khoan dầu của Mỹ vẫn chưa vội vàng tăng sản lượng. Ngược lại, tăng trưởng sản lượng dường như không phải là ưu tiêu hàng đầu của các công ty này.

Các lệnh trừng phạt Nga, được nhiều người kỳ vọng sẽ làm tổn hại đến sản lượng khai thác dầu của nước này. Tuy nhiên, điều đó hiện vẫn chưa xảy ra. Trên thực tế, các biện pháp trừng phạt dầu Nga như áp giá trần và cấm vận xuất khẩu sang EU vẫn chưa tác động đến dòng chảy của dầu Nga ra thị trường, ít nhất cho đến lúc này.

Các ngân hàng đầu tư cho rằng, giá dầu sẽ cao hơn, bất chấp sự sụt giảm gần đây do lo ngại kinh tế suy thoái gia tăng trên toàn cầu. Những lo ngại này phần lớn dựa trên việc Trung Quốc có thể đảo ngược chính sách zero-Covid. Tuy nhiên, họ cũng cho rằng, thực tế dầu vẫn là mặt hàng cần thiết và kỷ nguyên dầu giá rẻ có thể đã kết thúc.

"Chúng tôi vẫn duy trì quan điểm tích cực về giá dầu do nhu cầu phục hồi (Trung Quốc mở cửa, hàng không phục hồi) trong bối cảnh nguồn cung hạn chế do mức đầu tư thấp, rủi ro nguồn cung ở Nga cùng với đó là Mỹ kết thúc việc xả kho dự trữ chiến lược và hoạt động khai thác đá phiến chậm lại", Morgan Stanley cho biết.

Tuy nhiên, trong bình luận gần đây, Matt Sallee - Chủ tịch kiêm Giám đốc danh mục đầu tư của TortoiseEcoFin cho rằng tình hình về nguồn cung có thể nghiêm trọng hơn nhiều. "Dự trữ dầu toàn cầu đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2004, trong năm nay Bộ Năng lượng Mỹ cũng đã giải phóng 200 triệu thùng dầu từ kho dự trữ chiến lược, OPEC tiếp tục khó khăn để sản xuất ở mức mà họ đặt ra, trong khi các nhà sản xuất ở Mỹ vẫn không làm được gì nhiều", ông nói.

Theo ông, ngành sản xuất dầu của Mỹ có thể sẽ không còn đạt được mức tăng kỷ lục về sản lượng hàng năm trên 1 triệu thùng/ngày như thời gian qua. Thay vào đó, ông cho rằng, mức tăng chỉ có thể từ mức 500.000 - 700.000 thùng/ngày. Đây không phải là tin tốt với người tiêu dùng vì nhu cầu sẽ không giảm.

Trong báo cáo mới nhất, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cũng đã nâng dự báo về nhu cầu dầu trong năm tới do mức tiêu thụ bất ngờ tăng trong năm nay.

OilPrice cho rằng, trong trường hợp cung và cầu trên thị trường dầu vẫn ở trạng thái bấp bênh, liên tục bị thiếu hụt hoặc thậm chí rơi vào tình trạng thiếu hụt trầm trọng thì kỷ nguyên dầu thô giá rẻ có thể đã kết thúc.

Theo Dân trí

Nga bán dầu cho Ấn Độ thấp hơn cả giá trần phương Tây áp đặtNga bán dầu cho Ấn Độ thấp hơn cả giá trần phương Tây áp đặt
Nga trả đũa trần giá dầu chỉ mang tính hình thứcNga trả đũa trần giá dầu chỉ mang tính hình thức
Những yếu tố nào đang khiến giá dầu giảm?Những yếu tố nào đang khiến giá dầu giảm?
Mỹ bắt đầu bổ sung kho dự trữ dầu chiến lượcMỹ bắt đầu bổ sung kho dự trữ dầu chiến lược
Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (12/-17/12)Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (12/-17/12)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 77,350 77,550
Nguyên liệu 999 - HN 77,250 77,450
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 04/09/2024 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.400 78.600
TPHCM - SJC 79.000 81.000
Hà Nội - PNJ 77.400 78.600
Hà Nội - SJC 79.000 81.000
Đà Nẵng - PNJ 77.400 78.600
Đà Nẵng - SJC 79.000 81.000
Miền Tây - PNJ 77.400 78.600
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.400 78.600
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.400
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.300 78.100
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.220 78.020
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.420 77.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.140 71.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.330 58.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.860 53.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.520 50.920
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.390 47.790
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.440 45.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.240 32.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.040 29.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.520 25.920
Cập nhật: 04/09/2024 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,635 7,820
Trang sức 99.9 7,625 7,810
NL 99.99 7,640
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,640
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,740 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,740 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,740 7,860
Miếng SJC Thái Bình 7,900 8,100
Miếng SJC Nghệ An 7,900 8,100
Miếng SJC Hà Nội 7,900 8,100
Cập nhật: 04/09/2024 07:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,300 78,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,300 78,700
Nữ Trang 99.99% 77,250 78,200
Nữ Trang 99% 75,426 77,426
Nữ Trang 68% 50,831 53,331
Nữ Trang 41.7% 30,263 32,763
Cập nhật: 04/09/2024 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,476.93 16,643.36 17,191.71
CAD 17,972.86 18,154.40 18,752.53
CHF 28,552.73 28,841.14 29,791.36
CNY 3,431.90 3,466.56 3,581.31
DKK - 3,624.00 3,765.93
EUR 26,832.82 27,103.86 28,327.84
GBP 31,917.54 32,239.94 33,302.15
HKD 3,106.12 3,137.50 3,240.87
INR - 295.45 307.52
JPY 166.07 167.74 175.91
KRW 16.11 17.90 19.55
KWD - 81,167.50 84,483.28
MYR - 5,690.78 5,819.77
NOK - 2,312.56 2,412.76
RUB - 258.81 286.74
SAR - 6,604.07 6,873.85
SEK - 2,377.63 2,480.66
SGD 18,595.23 18,783.06 19,401.90
THB 648.89 720.99 749.22
USD 24,660.00 24,690.00 25,030.00
Cập nhật: 04/09/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,700.00 24,710.00 25,050.00
EUR 27,024.00 27,133.00 28,258.00
GBP 32,139.00 32,268.00 33,263.00
HKD 3,126.00 3,139.00 3,244.00
CHF 28,808.00 28,924.00 29,825.00
JPY 167.38 168.05 175.81
AUD 16,597.00 16,664.00 17,177.00
SGD 18,752.00 18,827.00 19,382.00
THB 713.00 716.00 748.00
CAD 18,104.00 18,177.00 18,730.00
NZD 15,351.00 15,863.00
KRW 17.86 19.71
Cập nhật: 04/09/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24710 24710 25050
AUD 16733 16783 17285
CAD 18255 18305 18756
CHF 29082 29132 29686
CNY 0 3474.7 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27321 27371 28074
GBP 32561 32611 33263
HKD 0 3185 0
JPY 169.55 170.05 175.56
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 0.993 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 15375 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2440 0
SGD 18900 18950 19501
THB 0 692.9 0
TWD 0 772 0
XAU 8000000 8000000 8100000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 04/09/2024 07:00