Câu chuyện về những người đương thời
Nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/2017) tôi quyết định đi thăm vài ba nơi có liên quan tới ngày này...
Điểm đầu tiên là Côn Đảo. Đã nghe và đọc nhiều về Côn Đảo, về các bậc lão thành cách mạng đã bị tù đầy, hy sinh tại đây, về những chuồng cọp, về nghĩa trang Hàng Dương, về những phút cuối cùng của nữ anh hùng Võ Thị Sáu trước họng súng của kẻ thù, về những cây bàng cổ thụ... và rất nhiều những điều khác nữa… Vậy mà nay tôi mới có dịp đến nơi này.
Ra khỏi sân bay, đã có xe của khách sạn hẹn đón. Lái xe khoảng tuổi 35, quê ở Quảng Trị, ra Côn Đảo làm ăn nhờ một người nhà đã định cư tại đảo. Giọng Quảng Trị đã pha chút cả Nam Bộ lẫn Bắc Bộ, anh bạn vui tính hỏi thăm tôi và say sưa kể về xứ đảo, rằng ở đây có hai thế giới: người dương có 7.000 nhưng người âm là 2 vạn. Suốt đoạn đường từ sân bay về trung tâm đảo dài 13km, trong đầu tôi hình dung người dân ở đây sống trên một nghĩa trang khổng lồ.
Dọc đường cây cối xanh tốt, rừng như là nguyên sinh, thi thoảng mới có người qua lại, gần tới trung tâm mới thấy có xe máy và ô tô chạy trên đường và kỳ lạ là không thấy bóng dáng một cảnh sát nào. Lái xe vui tính cho tôi biết rằng chính quyền ở đảo chỉ có một cấp huyện và tự hào khoe rằng chính quyền ở đây thực sự là của dân, vì dân mà không một nơi nào có được. Những công bộc ở đây không bao giờ có “lộc” từ người dân. Dân nhờ gì làm nấy chẳng bao giờ đòi hỏi, sách nhiễu gì dân, mà dân cũng chẳng bao giờ phải “cảm ơn”.
Dọc đường đi, anh bạn lái xe còn chỉ cho tôi nơi có bãi dương (cây phi lao) rộng khoảng 8ha mà người Pháp đã chôn ở đây một vạn người, chủ yếu là các nhà cách mạng bị giết hại và chết trong nhà tù. Nhưng rồi người Pháp đã ủi xuống biển để lại một vườn cây. Sau này, chính quyền Côn Đảo cũng chỉ tìm được trên 150 bộ hài cốt đưa về Nghĩa trang Hàng Dương. Vườn cây hiện nay gồm cây dương và cây tràm khoảng vài chục năm tuổi.
Ngay buổi chiều ngày đầu tiên đặt chân đến đảo, tôi đã được mục sở thị những điều anh bạn lái xe nói về xứ mình đang sống. Vào các nơi tham quan đây đó và ngay cả vào chợ đều không có người trông xe. Mọi người không ai bảo ai nhưng xe được xếp hàng rất có trật tự và chỉ cần rút chìa khóa để phòng khi con nít nghịch thôi. Nhân viên khách sạn chân tình khuyên chúng tôi nơi có hàng ăn ngon và nếu muốn cứ ra chợ mua về tự nấu ăn tại khách sạn. Hải sản ở đây ngon và có lẽ rẻ nhất quả đất.
Cũng trong chiều đó, tôi vào thăm và thắp hương đền thờ bà Phi Yến, một thứ phi của vua Gia Long, cũng lên thắp hương tại chùa Vân Sơn và lần đầu tiên vào Nghĩa trang Hàng Dương. Cổng vào nghĩa trang cao, rộng nhưng chỉ là một hình chữ nhật nằm ngang rất đơn giản, không hoa văn với hàng chữ màu vàng ngay ngắn NGHĨA TRANG HÀNG DƯƠNG trên nền đá màu xám đậm. Trung tâm nghĩa trang là một tượng đài cao vút (khoảng 20m) hình tháp tứ diện, trên đỉnh vạt chéo là hình cờ đỏ bằng đá đỏ và sao vàng bằng kim loại. Xung quanh Đài tưởng niệm là vô vàn ngôi mộ không thành hàng lối, trừ một khu vực kề ngay phía sau Đài tưởng niệm. Có lẽ đây là những ngôi mộ được quy tập sau này.
Mỗi ngôi mộ có một tấm bia hình dáng giống như Đài tưởng niệm. Trên mộ là một bát hương nhỏ và bên cạnh là một lọ hoa. Các bát hương đều có nhiều chân hương còn mới. Vườn phía trước nghĩa trang, giữa bãi cỏ xanh mướt, là một phù điêu bằng đá mô tả cảnh tù tội, đàn áp... Trong nghĩa trang có nhiều cây dương mà gốc tới vài người ôm, có cây do mất thân chủ, nhiều chồi mọc lên nhưng đã có đường kinh tới cả nửa mét. Nghĩa trang có tên “Hàng Dương” là bởi những cây này. Đó cũng chính là những thảo chứng về tội ác của quân xâm lược đối với dân ta, nơi địa ngục trần gian này.
Đường đi ngang dọc trong nghĩa trang được lát bằng các tấm đá thô có lẽ được khai thác ngay tại đảo. Bên trái lối vào là mộ chị Võ Thị Sáu nằm cách lối đi chính khoảng 30m. Đây là ngôi mộ lớn nhất và được ốp đá đen đẹp nhất trong nghĩa trang. Bia mộ là ảnh chị Sáu khắc bằng đá trắng với dòng chữ Anh hùng Liệt sĩ Võ Thị Sáu (1933-1952). Trên mộ lúc nào cũng đầy hoa trái. Trước khi ra đảo tôi được biết người ra viếng nghĩa trang và mang lễ vật ra làm lễ thường tiến hành vào ban đêm từ 11 giờ đến 1 giờ sáng. Lúc này được coi là thời điểm linh thiêng nhất để làm lễ.
Buổi sáng và đêm hôm sau tôi lại ra nghĩa trang thắp hương. Tôi đã tới nhiều nghĩa trang và nghĩa địa trong cả nước để thắp hương tưởng niệm. Tôi cũng có cậu em vợ là liệt sĩ hy sinh tại chiến trường Nam Lào và được quy tập về Nghĩa trang Hướng Hóa Quảng Trị. Ở đâu tôi cũng thấy lạnh lẽo, u tịch và thấy gai gai nơi xương sống. Nhưng lạ thay, ở nghĩa trang Hàng Dương cả ngày và đêm, tôi lại có cảm giác ấm cúng, nhưng rất linh thiêng, trang nghiêm. Nhất là về đêm, người tới thắp hương nữ Anh hùng Liệt sĩ Võ Thị Sáu đông nghịt nhưng không chen lấn, ồn ào. Người ta nói rằng "cô Sáu" rất thiêng... Ngày nay, người dân xứ đảo coi nữ anh hùng Võ Thị Sáu và bà Hoàng Phi Yến như các vị Thành Hoàng của đảo. Lời thề của nhiều người ở đây còn được bắt đầu bằng “Thề có cô Sáu chứng giám…” thay cho câu cửa miệng “Thề có trời đất…”. Một chiến sĩ cộng sản kiên cường được người dân và thậm chí cả kẻ thù tôn sùng như một vị thánh - chuyện chỉ có ở Côn Sơn.
Nửa đêm, chờ thắp hương mộ chị Sáu, tôi cầm bó hương đã châm đi thắp cho các ngôi mộ quanh đó. Nghĩ rằng các ngôi mộ gần mộ chị Võ Thị Sáu đã có nhiều người thắp hương, tôi một mình tìm vào nơi gần hàng rào vắng vẻ để thắp hương cho những ngôi mộ xa nhất. Tưởng rằng chỉ có mình làm việc ấy, thật không ngờ các thanh niên, nam có nữ có, đang thắp hương ở đó. Nơi vắng lặng và chỉ có ánh sáng mờ mờ, nhưng các ngôi mộ đều đỏ hương. Ấm lòng biết bao. Thật bất ngờ đối với các thanh niên chỉ đáng tuổi cháu mình lại có việc làm đẹp đến thế.
Rời Côn Đảo, tôi thấy như mình vừa tới một xứ sở xa lạ, một thế giới khác hẳn nơi mình đang sống, xô bồ, chen lấn, chộp giật, cái xấu luôn rình rập đâu đó và ước ao bao giờ, bao giờ... Nhưng cũng có chút tin tưởng rằng một ngày kia con, cháu chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội như xứ đảo hôm nay, bởi đó là quy luật phát triển của xã hội: cái thiện thắng cái ác.
Tiết mục song ca của một thương binh và nữ thầy thuốc tại Trung tâm chăm sóc người có công tỉnh Thái Bình |
Trở về nhà sau 3 ngày, tôi cùng các hội viên Hội Hoa lan Thái Bình tổ chức tới tri ân các thương binh đang được chăm sóc tại Trung tâm Chăm sóc người có công tỉnh Thái Bình. Trên đường đi, chúng tôi đã được Giám đốc Trung tâm Nguyễn Văn Hóa kể về cuộc sống của anh và các cán bộ công nhân viên tại đây. Nhưng trăm nghe không bằng thấy tận mắt. Chúng tôi được biết, Trung tâm đã chọn khoảng 30 người tỉnh táo hơn trong số trên 60 thương binh bị tổn thương thần kinh đang được chăm sóc để gặp gỡ, giao lưu cùng chúng tôi.
Tôi bước vào hội trường từ phía cuối với ý tưởng được bắt tay chào hỏi từng người một. Vô cùng đau xót khi cúi mình đưa tay tận mặt các anh mà chỉ nhận được cái nhìn vô cảm nhưng khi bắt tay thì cứ như muốn giữ bàn tay tôi mãi mãi không muốn buông ra. Nhiều trường hợp phải có người chăm sóc nhắc nhở như quát to, thậm chí đập nhẹ vào vai giục “bắt tay kìa” anh mới ngơ ngác như tìm một cái gì ở cõi hư vô và vội nắm lấy bàn tay tôi.
Mở đầu tiết mục giao lưu văn nghệ là tiết mục song ca của một nữ thầy thuốc xinh đẹp và một thương binh có dáng người cao nước da sạm nắng. Anh luôn có nụ cười như ngây dại. Họ song ca, họ hát không đồng nhịp nhưng mà say sưa và cũng cầm tay nhau lượn một vòng vài bước nhảy. Người thương binh cầm tay cô gái như một vật quý, không muốn buông ra kể cả lúc không còn là động tác cần khi biểu diễn như muốn giữ mãi, giữ mãi... ngay cả khi bài hát đã kết thúc. Tôi thật sự bất ngờ khi các tiết mục tiếp theo là múa, là hát của các thanh niên nam nữ rất trẻ trung xinh đẹp đang công tác tại Trung tâm biểu diễn.
Tôi suy nghĩ rất nhiều về họ, và tự hỏi sức mạnh nào, sự hấp dẫn nào, cái gì đã đưa họ về đây hằng ngày, hằng giờ sống với những người mà cuộc sống vô thức nhiều hơn là tỉnh táo. Các cháu phải chăm sóc họ như chăm sóc những đứa trẻ nhưng lại có thân hình to khỏe hơn cả chính mình nên sự cố có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Vì đồng lương thì quyết không phải vì họ chỉ là viên chức với hệ số phụ cấp ưu đãi 0,7 lương cơ bản, còn giám đốc lại chỉ có 0,5. Vậy thì họ vì cái gì? Câu trả lời chỉ là từ trái tim họ, từ sâu thẳm tâm hồn họ là tình yêu, là ý thức trách nhiệm, là những tấm lòng vàng, là sự quả cảm, là... rất nhiều lý do khác cao đẹp từ tâm hồn họ, từ ý chí của họ.
Được mời nói vài lời trong buổi giao lưu, tôi cũng theo công thức, cảm ơn các thương, bệnh binh đã hy sinh thân mình cho Tổ quốc, cho chúng tôi được sống như hôm nay. Nhưng tôi đã giành những lời tốt đẹp nhất, chân thành cảm phúc nhất đối với các cán bộ, nhân viên ở đây, hằng ngày thay chúng tôi, giúp chúng tôi chăm sóc những người đã hy sinh cuộc đời mình cho đất nước, đặc biệt là các cháu nam nữ thanh niên tuổi đời còn rất trẻ đang làm việc tại đây.
Đồng cảm xúc với tôi là các bạn đồng hành. Tôi đã nghe họ hát nhiều nhưng lạ thay chưa bao giờ thấy họ hát hay đến thế. Nét mặt xúc động nhưng họ hát bằng tiếng hát từ trái tim mình. Những bài hát về những năm tháng không thể nào quên, về người chiến sĩ năm xưa về những dấu chân tròn trên cát, về những người mẹ trông con từ chiến trường về..., về Sài Gòn trong ngày vui thống nhất và nhớ tới Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Cả hội trường vui lên, sôi lên, quên đi nỗi buồn, quên đi đớn đau vì bệnh tật. Và thật tuyệt vời khi thấy không còn những cái nhìn ngây dại như lúc mới bước vào hội trường.
Chúng tôi được đưa đi thăm nơi ăn ở của các thương bệnh binh. Tới nhà ăn, càng cảm động hơn khi thấy bên những người đàn ông to lớn đủ mọi lứa tuổi với nét mặt vô cảm là những “chiến sĩ áo trắng” bón cho họ từng thìa cơm... Tuy một lần nữa cay cay con mắt nhưng cũng thật ấm lòng khi hiển hiện nơi đây là cả một thế hệ mới rất có ý thức với cuộc đời này.
Có đi mới thấy! Tôi phát hiện ra rằng bên cạnh những xô bồ chen lấn, những việc làm xói mòn lòng tin vào nhân cách thì vẫn còn hiển hiện nơi đây những nhân cách, những truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc còn trường tồn và tin rằng cái đẹp của cuộc sống sẽ được nhân lên mãi mãi.
Nguyễn Xuân Nhự