Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Tăng trưởng xanh - những vấn đề cần đặt ra:

Bài 6: Chưa có ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án điện gió, điện mặt trời

06:38 | 13/08/2024

Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, hiện các khoản tín dụng xanh và trái phiếu xanh dành cho các dự án điện gió, điện mặt trời… vẫn chỉ là những khoản cho vay hoặc đầu tư thông thường với đầy đủ điều kiện về tài sản đảm bảo, lãi suất, kỳ hạn mà không có ưu tiên, ưu đãi nào.

Tại tọa đàm "Triển vọng phát triển Tài chính xanh" do Tạp chí Đầu tư Tài chính tổ chức, các chuyên gia rằng, việc thúc đẩy tài chính xanh rất quan trọng nhằm điều hướng nguồn lực tài chính vào các dự án thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, dù bắt đầu từ sớm nhưng khung pháp lý về tài chính xanh, kinh tế xanh vẫn chưa được như kỳ vọng. Do đó, rất cần có những giải pháp cụ thể và khả thi nhằm thúc đẩy lĩnh vực này phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Bài 6: Chưa có ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án điện gió, điện mặt trời
Chuyên gia kinh tế, TS. Lê Xuân Nghĩa

Liên quan đến chính sách hỗ trợ cho tài chính xanh, chuyên gia kinh tế TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết, chúng ta đang nói rất nhiều nhưng làm rất ít. "Thực tế, các khoản tín dụng xanh và trái phiếu xanh dành cho các dự án điện gió, điện mặt trời… vẫn chỉ là những khoản cho vay hoặc đầu tư thông thường với đầy đủ điều kiện về tài sản đảm bảo, lãi suất, kỳ hạn mà không có ưu tiên, ưu đãi nào.

TS. Nghĩa lấy ví dụ, Quỹ của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cho vay khắt khe như ngân hàng thương mại, chỉ có lãi suất thấp hơn. Theo đó, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý với tổng nguồn vốn 1.800 tỷ đồng, chỉ cho vay vào các dự án xử lý rác thải với điều kiện nghiêm ngặt như những khoản tín dụng bình thường. Để vay tiền từ quỹ này, doanh nghiệp cũng cần phải có tài sản đảm bảo, tuân thủ hạn mức tín dụng, chỉ có lãi suất thấp hơn thị trường 2%.

Theo TS. Nghĩa, đây chưa thể được coi là một quỹ tài chính xanh và quy mô của nó lại càng không tương xứng với nhu cầu về tài chính xanh mà Ngân hàng Thế giới ước tính là chúng ta cần tới 360 – 400 tỷ USD để chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính từ nay đến 2030.

Cũng theo TS. Lê Xuân Nghĩa, tại Việt Nam, Bộ Tài chính – cơ quan ngân sách của nhà nước, cần có sự quan tâm đúng mức. "Tiền dành cho tài chính xanh phải từ ngân sách đi ra", ông Nghĩa nhấn mạnh.

Cũng tại Tọa đàm, ông Nguyễn Tùng Anh, Trưởng phòng Nghiên cứu Tín dụng và Dịch vụ Tài chính xanh thuộc FiinRatings chia sẻ, mặc dù ghi nhận tốc độ tăng trưởng vượt bậc so với tín dụng chung, tín dụng xanh hiện chỉ chiếm 4,32% tổng dư nợ của nền kinh tế, cho thấy vẫn còn nhiều dư địa phát triển.

Theo ông Tùng Anh, thị trường trái phiếu xanh đã chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về cả số lượng và giá trị phát hành trong năm 2022. Để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường tài chính xanh, ông cho rằng cần nâng cao nhận thức của nhà đầu tư và chấp nhận vấn đề ngoại ứng. “Để thị trường trái phiếu xanh và tín dụng xanh phát triển bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng,” ông nói.

Ông cũng đề xuất nâng cao năng lực và kiến thức của các nhà hoạch định chính sách về sản phẩm tài chính xanh, đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập các tiêu chí và quy định rõ ràng về thị trường tài chính xanh, cùng với cơ chế kiểm soát để đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy.

Bài 6: Chưa có ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án điện gió, điện mặt trời
Chưa có ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án điện gió, điện mặt trời/Ảnh minh họa

Theo TS.Võ Trí Thành, chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu, là mệnh lệnh chính trị không thể chối từ. Phát triển xanh không chỉ là cam kết chính trị mạnh mẽ của cả quốc gia, mà là mệnh lệnh từ chính thị trường, người tiêu dùng yêu cầu xanh hơn, an toàn hơn; từ chính yêu cầu của các nước phát triển; từ tài chính, không xanh không cho vay.

"80% lượng vốn tài chính đòi hỏi ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) mới cấp vốn. Mệnh lệnh này là rất cấp bách. Với doanh nghiệp, không chỉ là tồn tại hay không tồn tại, mà còn nắm bắt được nhiều cơ hội mới khi phát triển xanh", ông Thành nói.

Ông Thành nhấn mạnh tài chính xanh là cuộc cách mạng về thể chế, công nghệ với nhiều điểm mới như tiêu chí, tiêu chuẩn xanh, nguồn gốc xuất xứ xanh…

Theo ông Thành, việc đưa vấn đề "xanh" vào thị trường không phải là vấn đề đơn giản. Với vấn đề của thể chế, chuyển đổi xanh là quá trình đầy thách thức, đòi hỏi thay đổi từ tư duy, nhận thức, thay đổi thể chế, ban hành khung pháp lý, chính sách, đào tạo thay đổi trong hành động, đòi hỏi sự tham gia của cả các tổ chức, người dân và doanh nghiệp.

"Như vậy, không chỉ doanh nghiệp hay nhà nước muốn là làm được mà cần có sự nỗ lực từ cả Chính phủ và các tổ chức, người dân và doanh nghiệp. Tóm lại đây là một sự chuyển đổi từ "dưới lên" và từ "trên xuống", ông Thành nhấn mạnh.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà cũng chỉ ra rằng, mặc dù Việt Nam đã bắt đầu xây dựng khung pháp lý về tài chính xanh từ nhiều năm trước, nhưng tiến độ vẫn còn chậm. Ông cho rằng cần có nhiều quy định rõ ràng hơn về thị trường tín chỉ carbon và các tiêu chí xanh cho từng ngành để thúc đẩy sự phát triển của tài chính xanh tại Việt Nam.

Huy Tùng ( lược ghi)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-nha
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank
  • bao-hiem-pjico
  • rot-von-duong-dai-agri
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,500 84,000
AVPL/SJC HCM 80,500 84,000
AVPL/SJC ĐN 80,500 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 80,800 ▲300K 82,400
Nguyên liệu 999 - HN 80,700 ▲300K 82,300
AVPL/SJC Cần Thơ 80,500 84,000
Cập nhật: 13/11/2024 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 80.800 ▼400K 82.400 ▼400K
TPHCM - SJC 80.500 84.000
Hà Nội - PNJ 80.800 ▼400K 82.400 ▼400K
Hà Nội - SJC 80.500 84.000
Đà Nẵng - PNJ 80.800 ▼400K 82.400 ▼400K
Đà Nẵng - SJC 80.500 84.000
Miền Tây - PNJ 80.800 ▼400K 82.400 ▼400K
Miền Tây - SJC 80.500 84.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 80.800 ▼400K 82.400 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 80.500 84.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 80.800 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 80.500 84.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 80.800 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 80.700 ▼400K 81.500 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 80.620 ▼400K 81.420 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 79.790 ▼390K 80.790 ▼390K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 74.250 ▼370K 74.750 ▼370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 59.880 ▼300K 61.280 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 54.170 ▼270K 55.570 ▼270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 51.730 ▼260K 53.130 ▼260K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 48.470 ▼240K 49.870 ▼240K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 46.430 ▼230K 47.830 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 32.650 ▼170K 34.050 ▼170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 29.310 ▼150K 30.710 ▼150K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.650 ▼130K 27.050 ▼130K
Cập nhật: 13/11/2024 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,990 ▲30K 8,310 ▼30K
Trang sức 99.9 7,980 ▲30K 8,300 ▼30K
NL 99.99 8,010 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 7,980 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,080 ▲30K 8,350 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,080 ▲30K 8,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,080 ▲30K 8,320 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 8,050 ▼30K 8,400 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,050 ▼30K 8,400 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,050 ▼30K 8,400 ▼30K
Cập nhật: 13/11/2024 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,145.71 16,308.80 16,832.04
CAD 17,720.00 17,898.99 18,473.26
CHF 28,028.88 28,312.00 29,220.34
CNY 3,424.10 3,458.69 3,569.66
DKK - 3,545.96 3,681.76
EUR 26,254.69 26,519.89 27,694.34
GBP 31,503.16 31,821.38 32,842.32
HKD 3,178.11 3,210.21 3,313.21
INR - 299.71 311.69
JPY 158.30 159.90 167.51
KRW 15.60 17.34 18.81
KWD - 82,215.28 85,502.33
MYR - 5,650.70 5,773.96
NOK - 2,244.53 2,339.83
RUB - 246.90 273.32
SAR - 6,731.10 6,978.52
SEK - 2,280.21 2,377.03
SGD 18,483.29 18,669.99 19,268.99
THB 646.54 718.38 745.89
USD 25,150.00 25,180.00 25,502.00
Cập nhật: 13/11/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,182.00 25,502.00
EUR 26,372.00 26,478.00 27,579.00
GBP 31,679.00 31,806.00 32,771.00
HKD 3,194.00 3,207.00 3,311.00
CHF 28,183.00 28,296.00 29,140.00
JPY 159.87 160.51 167.45
AUD 16,233.00 16,298.00 16,793.00
SGD 18,587.00 18,662.00 19,183.00
THB 709.00 712.00 742.00
CAD 17,842.00 17,914.00 18,430.00
NZD 14,765.00 15,259.00
KRW 17.26 18.95
Cập nhật: 13/11/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25150 25150 25480
AUD 16211 16311 16874
CAD 17815 17915 18466
CHF 28324 28354 29151
CNY 0 3473.3 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3648 0
EUR 26468 26568 27441
GBP 31797 31847 32965
HKD 0 3240 0
JPY 160.8 161.3 167.81
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.8 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 5952 0
NOK 0 2294 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2336 0
SGD 18562 18692 19423
THB 0 675.3 0
TWD 0 782 0
XAU 8050000 8050000 8400000
XBJ 7900000 7900000 8400000
Cập nhật: 13/11/2024 13:00