ADB cập nhật dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam
Ngày 27/9, tại Hà Nội, Ngân hàng ADB đã tổ chức họp báo về “Triển vọng kinh tế Việt Nam 2023-2024”.
Ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc quốc gia ADB. |
Phát biểu tại buổi họp báo, ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc quốc gia ADB cho biết, trước tình hình kinh tế đầy biến động, ADB đánh giá rất cao nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc ổn định thị trường. Tuy nhiên, giải ngân đầu tư công chậm đang gây ra những rủi ro, khiến giảm tốc nền kinh tế. Ngoài ra, việc các ngân hàng trung ương trên thế giới duy trì lãi suất cao, cùng với việc đồng bạc xanh của Mỹ tăng giá cũng tạo ra nhiều thách thức với Việt Nam.
Ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia kinh tế trưởng quốc gia Ngân hàng ADB |
Ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia kinh tế trưởng quốc gia Ngân hàng ADB cho biết, triển vọng kinh tế toàn cầu đang trong xu hướng giảm và những dấu hiệu suy yếu đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những tháng cuối năm và tiếp diễn trong nửa đầu năm 2023. Nguyên nhân xuất phát từ việc sản xuất công nghiệp chậm lại, xuất khẩu gặp khó khăn nhưng cầu trong nước dần phục hồi.
Cụ thể, kinh tế tăng trưởng chậm hơn kỳ vọng trong nửa đầu năm 2023 do nhu cầu bên ngoài giảm. Trong bối cảnh suy giảm ngoài dự kiến, dự báo tăng trưởng trong báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á (ADO) vào tháng 4 năm 2023 được hạ xuống còn 5,8% cho năm 2023 (từ mức 6,5%) và 6,0% cho năm 2024 (từ mức 6,8%). Lạm phát được kỳ vọng giảm nhẹ so với dự báo trong tháng 4, do giá cả hàng hóa trong nước ổn định giúp chỉ số giá tiêu dùng tăng lên mức 3,8% trong năm 2023 và 4,0% trong năm 2024.
Tổng quan nền kinh tế Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2023
Nền kinh tế Việt Nam phục hồi chậm trong 8 tháng đầu năm 2023. |
Kinh tế phục hồi bị ảnh hưởng bất lợi do nhu cầu bên ngoài giảm. Tăng trưởng kinh tế chậm lại, đạt 3,7% trong nửa đầu năm 2023 so với mức 6,5% cùng kỳ năm 2022. Do tiêu dùng nội địa tăng mạnh, dịch vụ tăng 6,3% và đóng góp 2,7 điểm phần trăm vào tổng mức tăng trưởng. Trong 8 tháng đầu năm 2023, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 7,8 triệu lượt, cao gấp 5,4 lần so với một năm trước đó (nhưng vẫn chỉ bằng xấp xỉ 70% mức trước đại dịch).
Cầu bên ngoài yếu, cùng với sự phục hồi chậm của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc), ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của các ngành sản xuất định hướng xuất khẩu. Chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 0,4% trong tám tháng đầu năm 2023, khiến số doanh nghiệp phải đóng cửa ngày càng nhiều. Tính trung bình, mỗi tháng có 15.600 công ty đóng cửa và hàng trăm nghìn công nhân bị mất việc. Tăng trưởng chung của lĩnh vực công nghiệp và xây dựng giảm còn 1,1% trong nửa đầu năm 2023. Tuy nhiên, tăng trưởng của ngành xây dựng đạt 4,7% so với mức 4,2% của năm ngoái, khi các hạn chế đi lại được dỡ bỏ. Lĩnh vực nông nghiệp duy trì được đà tăng mạnh, đạt 3,1% sau khi giá cả hàng hóa tăng, khuyến khích gia tăng các hoạt động nông nghiệp.
Về phía cầu, sự phục hồi của du lịch nội địa giúp tiêu dùng tăng 2,7% trong nửa đầu năm 2023. Tuy nhiên, đầu tư vẫn giảm trong nửa đầu năm 2023 do tổng tích lũy tài sản cố định giảm còn 1,2% so với mức 3,8% một năm trước đó. Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 10 tỉ USD trong nửa đầu năm 2023, bằng mức của năm trước. Tuy nhiên, cam kết vốn FDI trong nửa đầu năm 2023 ước tính đạt 13,4 tỉ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước do những căng thẳng địa chính trị và điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt. Nhu cầu bên ngoài yếu khiến thương mại suy giảm, hạn chế mức tăng trưởng chung.
Trong 8 tháng đầu năm, áp lực lạm phát giảm nhẹ nhờ giá dầu giảm và tỷ giá hối đoái ổn định. Mặc dù lạm phát chung đạt mức trung bình 3,1% so với cùng kỳ năm ngoái, lạm phát cơ bản (loại bỏ tác động của các yếu tố tạm thời) vẫn ở mức cao 4,6%.
Tăng trưởng thấp và lạm phát ở mức vừa phải dẫn đến việc chính phủ theo đuổi chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng. Trong tháng 6 năm 2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng trung ương, đã giảm lãi suất điều hành thêm 50 điểm cơ bản, đây là lần điều chỉnh lãi suất điều hành thứ tư trong năm nay. Lãi suất tái cấp vốn giảm còn 4,5%, lãi suất tái chiết khấu giảm còn 3,0%, và lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại cũng giảm tương ứng 1,0%. Để hỗ trợ những khách hàng gặp khó khăn, vào ngày 23/4/2023, ngân hàng trung ương đã cho phép các ngân hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ các khoản vay kinh doanh và tiêu dùng và giữ nguyên nhóm nợ cho đến ngày 30/6/2024.
Tuy nhiên, nhu cầu tín dụng vẫn yếu, phản ánh những khó khăn của nền kinh tế thực. Tăng trưởng tín dụng ước đạt 9,3% trong nửa đầu năm 2023, so với mức tăng trưởng 16,8% của cùng kỳ năm trước. Tổng phương tiện thanh toán giảm còn 5,3% trong nửa đầu năm 2023 từ mức 9,2% cùng kỳ năm trước. Chính sách tiền tệ linh hoạt cùng với việc thay đổi lãi suất điều hành thích ứng và tỷ giá hối đoái ổn định đã giúp nền kinh tế dần phục hồi. Đồng Việt Nam mất giá 1,0% so với đô-la Mỹ trong nửa đầu năm 2023.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang bị thu hẹp, chủ yếu do những bất ổn trong lĩnh vực bất động sản. Tâm lý thị trường đã phần nào ổn định do các quy định được sửa đổi kịp thời và các chính sách hoãn trả nợ, gồm cả tái cơ cấu trái phiếu. Tuy nhiên, lượng trái phiếu phát hành của doanh nghiệp, đặc biệt là phát hành trái phiếu bất động sản, đã sụt giảm đáng kể. Dư nợ trái phiếu có vấn đề so với tổng tín dụng ngân hàng là tương đối nhỏ, nhưng những bất ổn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản có thể gây hiệu ứng lan tỏa sang khu vực ngân hàng. Để giúp bình ổn thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước đã cho phép các ngân hàng mua lại trái phiếu chưa niêm yết có xếp hạng nội bộ cao nhất mà không cần phải chờ một năm sau khi bán. Ngân hàng nhà nước cũng chỉ đạo các ngân hàng triển khai gói tín dụng ưu đãi 120 nghìn tỷ đồng cho vay nhà ở.
Kinh tế toàn cầu phục hồi chậm làm kim ngạch xuất nhập khẩu giảm. Lãi suất cao ở Mỹ và châu Âu làm chậm quá trình phục hồi và giảm nhu cầu từ các đối tác thương mại lớn. Kim ngạch xuất khẩu tám tháng đầu năm 2023 giảm 10,0% so với cùng kỳ năm 2022. Nhu cầu giảm mạnh hơn tại các thị trường trọng điểm của Việt Nam, trong đó xuất khẩu sang Mỹ giảm 20,6%, Liên minh châu Âu giảm 9,7% và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) giảm 6,8%. Các lô hàng điện thoại di động, máy tính và sản phẩm điện tử - chiếm 30,0% tổng kim ngạch xuất khẩu - đã giảm 15,0%. Trong khi đó, xuất khẩu máy móc và thiết bị - chiếm 12,0% tổng kim ngạch xuất khẩu - giảm 10,0%.
Sản xuất đình trệ làm giảm kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Nguyên liệu đầu vào cho sản xuất chiếm 93,8% tổng kim ngạch nhập khẩu nhưng đã giảm tới 16,4%, xuống còn 194,7 tỷ USD trong tám tháng đầu năm 2023. Do nhập khẩu giảm nhanh hơn xuất khẩu, thặng dư thương mại gia tăng, đạt 20,2 tỷ USD trong cùng kỳ. Trong nửa đầu năm 2023, tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán đạt thặng dư ước tính khoảng 6,0% GDP, so với mức thâm hụt 3,6% GDP một năm trước đó.
Dòng vốn từ bên ngoài giảm, dẫn đến thu hẹp thặng dư tài khoản vốn và tài chính từ mức 6,4% GDP trong nửa đầu năm 2022 xuống còn ước tính 3,2% GDP trong nửa đầu năm 2023. Mặc dù có sự thu hẹp này, thặng dư của tài khoản vãng lai vẫn giúp cán cân thanh toán tổng thể đạt thặng dư ước tính ở mức 1,6% GDP trong nửa đầu năm 2023 từ mức thâm hụt 3,1% GDP trong nửa đầu năm 2022. Đến cuối tháng 6 năm 2023, dự trữ ngoại hối ước tính đủ chi trả 3,7 tháng nhập khẩu, tăng so với mức 2,8 tháng vào cuối năm 2022.
Thâm hụt tài khóa tiếp diễn trong các tháng nửa đầu năm 2023, làm giảm thặng dư ngân sách nhà nước. Thu từ hoạt động thương mại giảm và thiếu hụt các khoản thu nội địa làm giảm mức tăng tổng thu ngân sách trong tám tháng đầu năm 2023 xuống còn 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi ngân sách tăng 13,0%, trong đó chi đầu tư phát triển tăng 40,3%. Tuy nhiên, giải ngân vốn đầu tư công vẫn chậm so với kế hoạch năm. Thặng dư ngân sách giảm còn khoảng 1,5% GDP trong nửa đầu năm 2023, so với khoảng 5,1% cùng kỳ năm 2022.
Triển vọng kinh tế Việt Nam
Rủi ro đối với triển vọng kinh tế của Việt Nam vẫn còn cao. |
Dự báo tăng trưởng và lạm phát trong lần cập nhật này được điều chỉnh giảm so với dự báo trong tháng 4/2023. Tăng trưởng kinh tế hiện dự báo giảm còn 5,8% vào năm 2023 trước khi tăng lên 6,0% trong năm 2024. Dự báo lạm phát cũng giảm xuống. Các yếu tố chính tác động đến nền kinh tế là tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu, sự thắt chặt tiền tệ ở một số nước phát triển và tác động cuộc xung đột Nga - Ukraine vẫn đang tiếp diễn.
Nhu cầu thế giới giảm, tác động đến ngành sản xuất chế biến chế tạo ở Việt Nam, làm giảm dự báo của các ngành liên quan. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) của ngành sản xuất chế biến chế tạo tăng hơn 50 (mở rộng sản xuất) vào tháng 8/2023 sau năm tháng suy giảm liên tiếp, cho thấy sự phục hồi của ngành sản xuất dựa trên tiêu dùng. Công nghiệp được dự báo tăng trưởng 7,0% trong năm 2023. Xây dựng cũng sẽ tăng nếu các dự án cơ sở hạ tầng lớn được triển khai theo đúng kế hoạch.
Các lĩnh vực khác được dự báo sẽ có phục hồi tốt. Dịch vụ dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng, nhờ sự hồi sinh của ngành du lịch và các dịch vụ liên quan. Trong tháng 8, doanh số bán lẻ tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước, giúp doanh số của tám tháng đầu năm 2023 tăng 10,0% so với cùng kỳ. Nông nghiệp sẽ được hưởng lợi từ giá lương thực tăng, và dự báo lĩnh vực này đạt mức tăng trưởng 3,2% trong năm 2023.
Về phía cầu, tiêu dùng nội địa sẽ được hỗ trợ bởi lạm phát ở mức vừa phải và tiếp tục tăng trưởng trong các tháng còn lại của năm. Đầu tư công sẽ là động lực chính cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế trong năm 2023. Chính phủ cam kết giải ngân khoảng 30 tỷ USD trong năm nay. Trong những tháng gần đây, cam kết chính trị mạnh mẽ đã giúp hoạt động giải ngân được cải thiện đáng kể, mặc dù vẫn còn những hạn chế về mặt pháp lý. Trong tám tháng đầu năm 2023, gần 50,0% kế hoạch giải ngân đầu tư công của năm đã được thực hiện (tăng từ mức 33,0% vào cuối tháng 6/2023). Việc tăng tốc chi tiêu của chính phủ là sự kích cầu được mong đợi trong các tháng còn lại của năm. Đầu tư nước ngoài có dấu hiệu phục hồi bất chấp suy thoái kinh tế toàn cầu, với vốn FDI cam kết tính tới tháng 8/2023 là 18,2 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm ngoái và giải ngân vốn FDI tăng nhẹ ở mức 1,3%, đạt 13,1 tỷ USD.
Thâm hụt tài khóa sẽ tăng trong nửa cuối năm 2023. Quốc hội đã thông qua mức giảm 2,0% thuế giá trị gia tăng có hiệu lực đến cuối năm 2023, và chính sách tài khóa mở rộng dự kiến sẽ được tiếp tục. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhanh chóng triển khai chính sách này để thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Việt Nam cũng cần đẩy nhanh giải ngân các dự án đầu tư công, vì điều này sẽ hỗ trợ trực tiếp cho các ngành như xây dựng, sản xuất nguyên vật liệu và mang lại nhiều cơ hội việc làm hơn.
Nhu cầu thế giới suy yếu sẽ tác động tiêu cực tới triển vọng thương mại trong các tháng còn lại của năm 2023 và năm 2024. Tuy nhiên, xuất khẩu trong tháng 8 năm 2023 cho thấy tín hiệu phục hồi khi tăng 7,7% so với tháng trước. Tăng trưởng xuất - nhập khẩu dự kiến sẽ quay trở lại mức khiêm tốn 5,0% trong năm nay và năm sau, với sự phục hồi của cầu thế giới. Hoạt động thương mại mạnh mẽ sẽ giúp duy trì thặng dư tài khoản vãng lai trong năm nay, ước tính khoảng 3,0% GDP. Khi hoạt động sản xuất được phục hồi, nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất tăng lên, cán cân tài khoản vãng lai dự kiến sẽ giảm còn 2,0% GDP vào năm 2024.
Dự báo lạm phát trong báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) tháng 4 năm 2023 được hạ xuống còn 3,8% cho năm 2023 và 4,0% cho năm 2024. Áp lực lạm phát trong thời gian trước mắt có thể đến từ sự đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu do cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine đang tiếp diễn. Tuy nhiên, áp lực này có thể được hạn chế nhờ giá khí đốt và xăng dầu giảm trong nửa cuối năm, cùng với giá lương thực trong nước ổn định.
Sự phối hợp về chính sách có thể giúp kinh tế phục hồi một cách hiệu quả, trong bối cảnh giá cả tương đối ổn định và nhu cầu còn yếu. Trong ngắn hạn, cần thực hiện chính sách tiền tệ mang tính hỗ trợ và chính sách tài khóa mở rộng. Tăng trưởng tín dụng chậm cho thấy việc nới lỏng chính sách tiền tệ phải được phối hợp chặt chẽ với việc thực thi chính sách tài khóa để thúc đẩy hoạt động kinh tế một cách hiệu quả. Việc cấp tín dụng của các ngân hàng dự kiến tăng chậm do tổng nợ xấu tăng, ước tính khoảng 5,0% vào tháng 3/2023, và yêu cầu dự phòng tương ứng cũng tăng lên.
Rủi ro đối với triển vọng kinh tế của Việt Nam vẫn còn cao. Trong nước, các vấn đề có tính hệ thống trong giải ngân vốn đầu tư công và những yếu kém mang tính cơ cấu của nền kinh tế là nguy cơ chính dẫn tới suy giảm tăng trưởng. Ở bên ngoài, kinh tế toàn cầu tăng chậm lại đáng kể và Trung Quốc phục hồi kém có thể ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu, hoạt động sản xuất và việc làm của Việt Nam. Lãi suất duy trì ở mức cao tại Mỹ và châu Âu cùng với đồng đô-la Mỹ mạnh hơn có thể gây thêm khó khăn cho việc phục hồi nhu cầu bên ngoài, dẫn đến giảm tỷ giá tiền đồng.
Ông Nguyễn Bá Hùng nhận định, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có khả năng phục hồi trong môi trường nhiều thách thức, triển vọng vừa lạc quan vừa thận trọng, do các yếu tố nội tại được cải thiện và những biện pháp chính sách công chủ động. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều rủi rõ đối với triển vọng phát triển kinh tế. Kinh tế toàn cầu suy giảm sẽ anh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam từ đó hạn chế đà tăng trưởng. Ông Nguyễn Bá Hùng cho biết thêm, tốc độ thực hiện kế hoạch đầu tư công là yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Minh Đức